TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 331/2023/DS-PT NGÀY 28/07/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Bản án 331/2023/DS-PT ngày 28/07/2023 về tranh chấp quyền sử dụng đất Ngày 28 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 258/2022/TLPT-DS ngày 05 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 57/2022/DS-ST ngày 20 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 303/2022/QĐ-PT ngày 28 tháng 10 năm 2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Kim T sinh năm 1937 (Chết) Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, thành phố C.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng:
1. Bà Trầ n Thị C sinh năm 1946
2. Anh Nguyễn Đị nh T1 , sinh năm 1973
3. Anh Nguyễn Tha nh L , sinh năm 1969
4. Anh Nguyễn Hoàng K , sinh năm 1976
5. Chị Nguyễn Thị Kim T2 , sinh năm 1974
6. Anh Nguyễn Ngọc Đ , sinh năm 1980
7. Chị Nguyễn Thị Trúc A sinh năm 1985 Cùng địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, thành phố C.
8. Chị Nguyễn Kim Ngọc K1 , sinh năm 1977 Địa chỉ: ấp T, xã N, huyện C, tỉnh Tây Ninh.
(cùng ủy quyền cho bà Trần Thị C).
Bà Trần Thị C ủy quyền cho ông Võ Văn S. Theo văn bản 470 ngày 07 tháng 11 năm 2022.
Bị đơn: Ông Quách Văn H Ông Trầ n Văn M, sinh năm 1956 (Có mặt).
Cùng địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, thành phố C.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Quách Văn T3 , sinh năm 1979 (Vắng mặt).
2. Chị Nguyễn Thị Diệu T4 , sinh năm 1979 (Vắng mặt).
3. Anh Quách Văn T5 , sinh năm 1974 (Vắng mặt).
4. Chị Bùi Thị Kim Đ1 , sinh năm 1974 (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, thành phố C.
5. Bà Lê Thị T6 , sinh năm 1958(Vắng mặt).
Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, thành phố C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền trình bày:
Vào khoảng năm 1992, ông T và bà C được cha mẹ tặng cho quyền sử dụng đất thửa 314, diện tích 6.350m2, loại đất ở nông thôn và trồng cây lâu năm, tờ bản đồ số 11, tọa lạc ấp T, xã T, huyện T, TP ., số vào sổ cấp giấy chứng nhận số H00853, cấp ngày 27/4/2007 do ông Nguyễn Kim T đứng tên. Vì có ý định chuyển nhượng đất cho người khác nên tiến hành đo đạc lại thì phát hiện diện tích đất thiếu khoảng 225m2, ngang 5m và dài 45m. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn ông H trả lại diện tích đất đã lấn chiếm 225m2, tại thửa 314. Và rút yêu cầu khởi kiện đối với ông Trần Văn M.
Theo lời khai tại Tòa án, bị đơn trình bày:
Khoảng năm 1981, ông nhận chuyển nhượng đất của ông Trần Văn N diện tích 1.100m2, vị trí từ bờ bối cặp mương ranh, giá chuyển nhượng 300.000 đồng. Lúc chuyển nhượng không biết thửa đất số mấy, tờ bản đồ số mấy nhưng vị trí tọa lạc ở ấp T, xã T, huyện T, TP .. Sau đó, trước khi ông N chết thì ông chuyển nhượng thêm ngang 4m, dài 37m, giáp với diện tích 1.100m2 đã chuyển nhượng trước đó, giá chuyển nhượng 05 phân vàng 24k, không có làm giấy tờ gì. Đến nay vẫn chưa làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất vì phía nguyên đơn khởi kiện tranh chấp. Trên diện tích tranh chấp hiện nay có nhà tình thương của nhà nước cấp cho vợ chồng Quách Văn T3, Nguyễn Thị Diệu T4. Phía bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T6 thống nhất phần trình bày của ông H.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Qu á ch Văn T3 , chị Nguyễn Thị Diệu T4 , anh Quách Văn T5 , chị Bùi Thị Kim Đ1 vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên không ghi nhận được ý kiến.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 57/2022/DSST ngày 20 tháng 7 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Thới Lai đã tuyên xử:
Tuyên án:
Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của đương sự tại phiên tòa: Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Trần Kim T7 đồng ý giao phần đất tranh chấp diện tích 184m2 theo Bản trích đo địa chính số 65/TTKTTNMT ngày 22/10/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C cho ông Quách Văn H.
Ông Quách Văn H đồng ý giao cho người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Kim T (bà Trần Thị C làm đại diện) số tiền 15.000.000đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kim T (có Bà Trần Thị C (người kế thừa và nghĩa vụ tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa và nghĩa vụ tố tụng) đối với ông TrầnVănM về việc tranh chấp quyền sử dụng đất tại thửa 314, diện tích 6.350m2, loại đất ở nông thôn và trồng cây lâu năm, tờ bản đồ số 11, tọa lạc ấp T, xã T, huyện T, TP ..
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo,chi phí đo đạc thẩm định, án phí, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Tại đơn kháng cáo ngày 01/8/2022 người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng nguyên đơn : Anh Nguyễn Thức Đ2, anh Nguyễn Thanh L1, chị Nguyễn Thị Kim T2, chị Nguyễn Thị Trúc A yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Yêu cầu định giá thị trường phần đất tranh chấp. Yêu cầu ông Quách Văn H trả giá trị phần đất tranh chấp theo giá trị thị trường.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên kháng cáo. Bị đơn vẫn giữ nguyên ý kiến trình bày.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C tại phiên tòa:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Tòa án:
Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng quy định tại Điều 48 Bộ Luật tố tụng dân sự; thời hạn chuẩn bị xét xử thực hiện đúng theo quy định tại Điều 286 Bộ Luật tố tụng dân sự.
Việc thu thập chứng cứ và hòa giải được thực hiện đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
Các đương sự đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70 về quyền và nghĩa vụ của đương sự, Điều 71 về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn, Điều 72 quyền và nghĩa vụ của bị đơn và Điều 73 quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đúng quy định.
Tính có căn cứ, hợp pháp của kháng cáo:
Về hình thức kháng cáo: Các đương sự kháng cáo trong thời hạn luật định và có đóng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xem hợp lệ về mặt hình thức.
Về nội dung kháng cáo:
Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đơn kháng cáo của các bị đơn thể hiện phần đất thửa 314 giáp ranh với thửa 315 của ông Quách Văn H. Phần đất của ông T được cấp diện tích 6.350m2 khi đo đạc thực tế thiếu khoảng 225m2, ngang 5m và dài 45m. Nguyên đơn cho rằng ông H lấn chiếm nên khởi kiện. Tuy nhiên qua đo đạc phần đất lấn chiếm có diện tích 184m2 tại vị trí A theo bản trích đo địa chính số 65 ngày 30/6/2021. Hiện trạng phần đất tranh chấp là do ông Quách Văn T3 và bà Nguyễn Thị D là con của ông H đang ở và sử dụng.Trong các lần hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm bà C và các con của ông T đồng ý nhận 15.000.000 đồng và đồng ý ổn định phần đất tranh chấp cho ông H nên ông H đồng ý, Tòa án cấp sơ thẩm đã ghi nhận sự thỏa thuận này của các đương sự. Nay bà C và các con kháng cáo yêu cầu trả giá thị trường là không có căn cứ chấp nhận. Bởi lẽ tại các lần hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm bà đồng ý nhận 15.000.000 đồng và ổn định phần đất tranh chấp cho ông H, đây là sự tự nguyện định đoạt của bà. Nay bà và các con yêu cầu ông H trả giá thị trường là không có căn cứ chấp nhận. Hơn nữa, Tòa án cấp sơ thẩm chưa quyết định có phải bị đơn lấn chiếm đất của nguyên đơn hay không? Vì hiện tại đất hai bên đều thiếu, do muốn kết thúc sớm vụ án nên bị đơn chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Nay nguyên đơn cho rằng phần đất lấn chiếm có diện tích 184m2 và yêu cầu định giá thị trường để trả cho nguyên đơn là không có căn cứ chấp nhận.
Từ những nhận định như trên xét thấy kháng cáo của bà Trần Thị C và hàng thừa kế tố tụng của ông Nguyễn Kim T là không có căn cứ chấp nhận.
3. Đề xuất quan điểm giải quyết vụ án dân sự:
Đề xuất: Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 57/2022/DS-ST ngày 20/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai, thành phố C. Theo hướng bác toàn bộ kháng cáo của bà Trần Thị C, nguyễn Định Thức, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Hoàng K, Nguyễn Thị Kim T2, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Thị Trúc A.
Phần án phí và chi phí thẩm định: Các đương sự phải nộp theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án là đúng quy định pháp luật.
[3] Về nội dụng vụ án:
[3.1] Xét yêu cầu kháng cáo nguyên đơn: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm định giá thị trường phần đất tranh chấp và yêu cầu ông Quách Văn H trả giá trị phần đất tranh chấp theo giá trị thị trường. Nguyên đơn cho rằng giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích tranh chấp 184m 2 (loại đất CLN) theo Bản trích đo địa chính số 65/TTKTTNMT ngày 22/10/2021 của Trung tâm kỷ thuật tài nguyên và môi trường Thành phố C, đã được Tòa án nhân dân huyện Thới Lai định giá thấp so với giá thị trường hiện nay. Nhưng nguyên đơn không hiểu biết pháp luật, nên tại Tòa án cấp sơ thẩm nguyên đơn không yêu cầu định giá thị trường, nguyên đơn nhận thấy quyền và lợi ích của nguyên đơn không được đảm bảo đầy đủ, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nguyên đơn.
[3.2] Hội đồng xét xử phức thẩm xét thấy:
[3.2.1] Nguyên đơn cho rằng không hiệu biết pháp luật nên không yêu cầu cấp sơ thẩm định giá thị trường, điều này không đúng với lý do ở cấp sơ thẩm nguyên đơn có trợ giúp viên pháp lý nhà Nước thành phố C bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn. Hơn nửa tại biên bản phiên Tòa sơ thẩm có ghi rõ nguyên đơn cũng được Hội đồng cấp sơ thẩm cho nguyên đơn hội ý, cuối cùng nguyên đơn mới đồng ý thỏa thuận với bị đơn về vấn đề tranh chấp của các bên. Việc này cũng được Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai phát biểu quan điểm quan điểm ghi nhận yêu cầu công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Nguyên đơn thay đổi thỏa thuận tại phiên tòa cấp sơ thẩm cho rằng do không hiểu pháp luật xin định lại giá thị trường là không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3.2.1] Ngoài ra nguyên đơn cho rằng phần đất tại vị trí A theo bản trích đo của Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường thành phố C với diện tích tranh chấp là 184m2 là của nguyên đơn. Tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy diện tích 184 m2 không phải của nguyên đơn vì căn cứ trích đo số 65/TTKTTNMT ngày 22/10/2021 của Trung tâm kỷ thuật tài nguyên và môi trường Thành phố C thì thửa 315 bị đơn đang sử dụng diện tích là 658.8m2 + 184m2 = 842,8, so với trích đo số 222/VPĐKQSDD ngày 04 tháng 12 năm 2009 của văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện T có chữ ký của ông Nguyễn Kim T chồng của bà Nguyễn Thị C1 thì phía bị đơn còn thiếu đất.
Đối với thửa đất số 314 của nguyên đơn thực tế đang sử dụng là 6181.0 m2 so với giấy chứng nhận nguyên đơn được cấp diện tích 6.350m2 (nguyên đơn thiếu 169m2 ), tuy nhiên việc thiếu đất này thể cho rằng bị đơn lấn vì thực tế bị đơn cũng thiếu đất. Hơn nữa tứ cận phần đất của nguyên đơn còn giáp ranh với các phần đất khác và có giáp sông nên không thể xác định bị đơn lấn ranh phần đất của nguyên đơn. Do đó yêu cầu trả lại 184m2 nguyên đơn là không có căn cứ.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Về chi phí định giá thị trường cấp phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn phải nộp 6.000.000 đồng, nguyên đơn đã nộp xong.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn bà Trần Thị C thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định Do kháng cáo không được chấp nhận. Anh Nguyễn Thức Đ2, anh Nguyễn Thanh L, chị NguyễnThịKimT2, chị Nguyễn Thị Trúc A phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị C1, Anh Nguyễn Định T1, anh Nguyễn Thanh L, chị Nguyễn Thị Kim T2, chị Nguyễn Thị Trúc A. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 57/2022/DS – ST ngày 20/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai.
1. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của đương sự tại phiên tòa:
1.1. Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Trần Kim T7; bà Trần Thị C đồng ý giao quyền sử dụng đất phần đất tranh chấp diện tích 184 m2 theo Bản trích đo địa chính số 65/TTKTTNMT ngày 22/10/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C cho ông Quách Văn H.
1.2. Ông Quách Văn H đồng ý giao cho người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Kim T (bà Trần Thị C làm đại diện) số tiền 20.000.000đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.
1.3. Về chi phí tố tụng cấp sơ thẩm: Ông H có nghĩa vụ trả lại cho Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Kim T (bà Trần Thị C làm đại diện) số tiền là 3.000.000đồng.
Về chi phí định giá thị trường cấp phúc thẩm: Nguyên đơn phải nộp 6.000.000 đồng, nguyên đơn đã nộp xong.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kim T (có Bà Trần Thị C (người kế thừa và nghĩa vụ tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa và nghĩa vụ tố tụng) đối với ông TrầnVănM về việc tranh chấp quyền sử dụng đất tại thửa 314, diện tích 6.350m2, loại đất ở nông thôn và trồng cây lâu năm, tờ bản đồ số 11, tọa lạc ấp T, xã T, huyện T, TP ..
3. Án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự được miễn nộp.
5/ Về án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị C1 được miễn án phí.
Anh Nguyễn Định T1, anh Nguyễn Thanh L, chị Nguyễn Thị Kim T2, chị Nguyễn Thị Trúc A phải liên đới chịu án phí án phí số tiền 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm.
Chị Nguyễn Thị Chúc A1 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng theo biên lai thu số 0005582 tại chi cục thi hành án huyện Thới Lai, thành phố C.
Chị NguyễnThịKimT2 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng theo biên lai thu số 0005583 tại chi cục thi hành án huyện Thới Lai, thành phố C.
Anh Nguyễn Thanh L được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng theo biên lai thu số 0005584 tại chi cục thi hành án huyện Thới Lai, thành phố C.
Anh Nguyễn Định T1 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng theo biên lai thu số 0005585 tại chi cục thi hành án huyện Thới Lai, thành phố C.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 331/2023/DS-PT
Số hiệu: | 331/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về