TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 277/2023/DS-ST NGÀY 27/10/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 29/9/2023, ngày 18/10/2023 và ngày 27/10/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2019/TLST-DS ngày 04 tháng 01 năm 2019 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 791/2023/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 9 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1/ Ông Trương Văn B, sinh năm 1939
2/ Bà Huỳnh Thị C, sinh năm 1937 Cùng địa chỉ: Số A đường C, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Theo văn bản ủy quyền ngày 01/3/2018): Ông Trần Văn Á (Có mặt) Địa chỉ: số A T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
- Bị đơn: Bà Trần Thị Phú Ú, sinh năm 1980 (Có mặt) Địa chỉ: Số A C, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Trần Phú H; (Vắng mặt)
2/ Bà Trần Thị Phú H1; (Vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Phủ H và bà Trần Thị Phú H1: Bà Trần Thị Phú Ú (Theo văn bản ủy quyền ngày 27/01/2021) Địa chỉ: Số A C, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình giải quyết vụ án phía nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn sử dụng liên tục, ổn định căn nhà và đất toạ lạc tại số A đường C, phường C, quận N, T năm 1967 đến nay. Đến năm 1982, phía nguyên đơn được Ủy ban nhân dân tỉnh C (cũ) và Ủy ban nhân dân phường C xác nhận chủ quyền hợp pháp đối với căn nhà và đất này. Cụ thể căn nhà và đất được xác định gồm: nhà trên có chiều ngang 3,6m; dài 15m; nhà dưới ngang 5,5m; dài 12m.
Tuy nhiên, sau đó nguyên đơn bị hộ có đất giáp ranh liền kề (Bà Phạm Ngọc N là mẹ của bị đơn) tranh chấp đòi lại phần nhà trên: ngang 3,6m, dài 15m. Vụ việc tranh chấp đã được Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm giải quyết bằng 02 bản án (bản án sơ thẩm số 104/DS-ST ngày 25/9/1990 của Tòa án Nhân dân thành phố Cần Thơ (cũ) và bản án phúc thẩm số 236/DSPT ngày 28/9/1993 của Tòa án nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ). Tòa án 02 cấp đà tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của phía bà N về việc đòi lại căn nhà của phía Nguyên đơn, công nhận quyền sở hữu hợp pháp của nguyên đơn đối với căn nhà số A nêu trên.
Đen năm 2007, nguyên đơn bị thu hồi 44,7m diện tích căn nhà và đất nêu trên để xây dựng công trình cầu Q, quận N, thành phố Cần Thơ. Phía Nguyên đơn đã được bồi thường tổng số tiền là 795.345.170 đồng cho diện tích nhà và đất bị thu hồi nêu trên.
Sau khi giao mặt bằng để thi công công trình phía nguyên đơn đã thực hiện thủ tục hợp thức hoá toàn bộ phần diện tích nhà và đất còn lại (gồm phần diện tích nhà đất còn lại của phần nhà trên và toàn bộ phần nhà dưới). Qua nhiều lần cán bộ địa chính cùng Ủy ban nhân dân phường xuống tại thực địa để xác định ranh giới, mốc giới thửa đất thì phát sinh tranh chấp với bà Trần Thị Phú Ú; phía bà Ú luôn cho rằng phần nhà dưới này là thuộc quyền sở hữu của gia đình bà.
Nguyên đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, yêu cầu công nhận nhà và đất thuộc sở hữu của ông Trương Văn B và bà Huỳnh Thị C, phần đất tại địa chỉ số A C, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ. Nguyên đơn được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà và đất đối với toàn bộ phần diện tích nhà và đất theo bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án phía bị đơn bà Trần Thị Phú Ú trình bày: Toàn bộ phần đất tranh chấp có nguồn gốc từ của ông Trần Văn V và bà Nguyễn Thị B1 đã chết, giao quyền thừa kế lại cho bà Phạm Ngọc N là mẹ của bị đơn, khi bà N chết thì bà Phú Ú được toàn quyền thừa kế lại tài sản của ông V, sinh thời ông V, bà B1, bà N không có ký giấy bán đất, bán nhà cho bất cứ ai, nên bà cho rằng phần nhà đất của nguyên đơn đang sử dụng là thuộc quyền sở hữu của bị đơn. Do đó, bị đơn không đồng ý ký giáp ranh cho nguyên đơn. Quá trình giải quyết thừa nhận sự việc tranh chấp giữa hai bên đã từng được giải quyết tại các bản án như nguyên đơn trình bày. Tuy nhiên, thời điểm đó việc giải quyết không tiến hành đo vẽ nên không biết vị trí cụ thể của căn nhà tuy nhiên căn nhà được giải quyết có ghi phía trước ngang 3,6m phía sau ngang 5,5m dài 15m. Theo thể hiện phần đất này phía nguyên đơn đã bị thu hồi gần hết. Như vậy, phần nằm ngoài diện tích căn nhà này là của bị đơn. Do đó, không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn B và bà Huỳnh Thị C.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn trình bày: Thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn ông Trương Văn B và bà Huỳnh Thị C theo số liệu thể hiện tại Bản trích đo địa chính số 44/TTKTTNMT ngày 24/3/2022 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C, với diện tích khoảng 109,6m2 (Một trăm lẻ chín phẩy sáu mét vuông) không tranh chấp phần ranh giới quyền sử dụng đất với bị đơn.
Bị đơn vẫn giữ nguyên các ý kiến đã trình bày, không đồng ý toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Thư ký đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết. Đối với ông H, bà H2 cần xác định là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, vụ án được thụ lý và đưa ra xét xử đã vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định. Đương sự thực hiện đúng quy định.
- Về nội dung: Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc công nhận toàn bộ phần đất tranh chấp có diện tích 109,6 m2 cho nguyên đơn, về ranh giới, mốc giới quyền sử dụng đất giữa các bên thực hiện theo kích thước và vị trí được thể hiện tại Bản trích đo địa chính số 44/TTKTTNMT của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C ngày 24/3/2022. Đối với phần đất trong lộ giới dự mở sẽ thực hiện theo các Quyết định của Ủy ban nhân dân.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khỉ nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn. Bị đơn đơn không có yêu cầu phản tố, tuy nhiên cho rằng phần đất đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bị đơn. Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, quyền sử dụng đất đang tranh chấp tại quận N, bị đơn có địa chỉ tại quận N nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Nhân dân quận Ninh Kiều theo định tại khoản 3 Điều 26, điểm b khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Phú H và bà Trần Thị Phú H3 đã có văn bản ủy quyền cho bà Trần Thị Phú Ú. Bà Phú Ú không có yêu cầu phản tố.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: về việc công nhận phần đất có diện tích 109,6m2 theo Bản trích đo địa chính số 44/TTKTTNMT ngày 24/3/2022 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C, Hội đồng xét xử xét thấy theo đơn xin xác nhận chủ quyền nhà của ông Trương Văn B ngày 04/5/1982 thể hiện vào khoảng năm 1967 ông Trương Văn B được ông V cho cất nhà trên phần nhà, hồ nước và mái chái, cùng vụ việc cầm cố căn nhà số A C 8 giữa ông V và ông B sau đó có xảy ra tranh chấp giữa các bên. Vụ việc tranh chấp được giải quyết tại biên bản giải quyết tranh chấp giữa ông B và ông V ngày 28/11/1980, biên bản giải quyết thể hiện “ông B có mua đất nền nhà, hồ nước và mái chái của ông V. Đối với căn nhà số A C (căn nhà hiện bị đơn đang quản lý) Ông V có cầm cố 300.000 tiền cũ cho ông B, nay anh B phải trả lại căn nhà này cho ông V, còn số đất bên nào nấy hưởng, còn tiền bạc không bên nào đòi bên nào”. Do đó, phần đất nguyên đơn đang quản lý là nhà số A C 8 phù hợp với phần đất nền nhà, hồ nước và mái chái thể hiện trong biên bản. Phần nhà số A C bị đơn quản lý đến nay, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H00031.QSDĐ. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này trừ phần phạm lộ giới 26m tính từ tim đường C thì phần đất bị đơn được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn lại là 76,6m2. Trong khi theo Bản trích đo địa chính số 44/TTKTTNMT thể hiện phần đất bị đơn thực tế quản lý sau khi trừ phần phạm lộ giới bị đơn còn diện tích là 82,5 m2 là lớn hơn diện tích đất được cấp là 5,9m2.
Bị đơn cho rằng phần đất của nguyên đơn theo Bản án đã có hiệu lực mới đúng các phần đất còn lại không phải của nguyên đơn, mà thuộc quyền sử dụng của bị đơn. Nguyên đơn cho rằng, các phần dư là do nguyên đơn bồi đắp trước đó và ranh giới hai bên đã có từ trước đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy, phía nguyên đơn và bị đơn sử dụng phần nhà đất ổn định từ thời điểm trước khi hai bên xảy ra tranh chấp, sau khi được giải quyết tranh chấp vào năm 1980. Vào năm 1990, mẹ của bị đơn đã khởi kiện đòi lại nhà số A C 8 của nguyên đơn theo diện tích bị đơn thời điểm đó chỉ yêu cầu diện tích với kích thước nhà ngang trước 3,6m, ngang sau 5,5m dài 15m và đã bị Tòa án 02 cấp sơ thẩm, phúc thẩm bác yêu cầu này của bị đơn (Bản án sơ thẩm số 104/DS-ST ngày 25/9/1990 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ (cũ) và Bản án phúc thẩm số 236/DSPT ngày 28/9/1993 của Tòa án nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ)). Có thể thấy rằng, mặc dù các bản án nói trên không nêu cụ thể kích thước đất và nhà nguyên đơn ông B, bà C được quản lý, sử dụng nhưng có thể hiểu phía bị đơn không còn quyền đối với phần quyền sử dụng đất mà nguyên đơn đang quản lý. Bởi bà N mẹ của bị đơn chỉ yêu cầu ông B, bà C trả nhà với kích thước nêu trên nên kết quả giải quyết không chấp nhận yêu cầu của phía nhà bà N thời điểm đó vì không có cơ sở. Mặt khác, ông B, bà C không có phản tố nên không giải quyết các phần đất còn lại. Hơn nữa, phía nguyên đơn đã xây dựng nhà từ trước năm 1982 và vào năm 1989 thì xây kiên cố, sử dụng cho đến nay. Bị đơn cất nhà năm 1963, đến năm 2012 thì cũng xây dựng, sửa chữa lại kiên cố sử dụng ổn định đến nay, cũng như về ranh giới, mốc giới sử dụng đất giữa các bên cũng không có thay đổi.
Sau khi giải quyết tranh chấp ông B và ông V đã được giải quyết cắm cọc ranh thể hiện tại đơn xin xác nhận biên bản phân ranh gia cư bị thất lạc ngày 04/3/1982 được xác nhận tại UBND phường C ngày 03/4/1982 thể hiện “phần nhà đất ông Trần Văn V làm chủ phía trước: ngang 4m, dài 15m, không kể sân, phía sau: ngang 2,5m (hai thước rưỡi) dài tới mẻ rạch; Phần nhà đất ông B làm chủ căn nhà số A có kích thước: Phía trước ngang 3,6m (ba thước sáu) dài 15 m, không kể sân; Phía sau: ngang 5,5m (năm thước rưỡi) dài tới mé rạch). Khi các bên xây dựng nhà cũng không bên nào tranh chấp hay ngăn cản gì.
Bị đơn cũng không có chứng cứ gì thể hiện bị đơn có quyền quản lý sử dụng phần nhà và đất này. Trong khi nguyên đơn có đủ các tài liệu chứng minh quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng phần đất đang quản lý (Bao gồm phần đất chưa được công nhận và phần đất còn lại Bản án sơ thẩm số 104/DS-ST ngày 25/9/1990 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ (cũ) và Bản án phúc thẩm số 236/DSPT ngày 28/9/1993 của Tòa án nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ) sau khi bị thu hồi).
Từ những phân tích, căn cứ và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc công nhận toàn bộ phần đất tranh chấp có diện tích 109,6 m2 cho nguyên đơn, về ranh giới, mốc giới quyền sử dụng đất giữa các bên thực hiện theo kích thước và vị trí được thể hiện tại Bản trích đo địa chính số 44/TTKTTNMT của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C ngày 24/3/2022 là có cơ sở chấp nhận.
Do yêu cầu công nhận của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn được quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để hợp thức hóa nhà và đất nói trên.
[5] Về chi phí thẩm định: Phía nguyên đơn thống nhất tự nguyện chịu, nguyên đơn đã nộp xong.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Trần Thị Phú Ú chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Do đó, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ vào:
- Khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 169 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Điều 166 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;
- Điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[2] Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn B và bà Huỳnh Thị C:
- Công nhận phần đất tranh chấp có diện tích 109,6 m2 (Một trăm lẻ chín phẩy sáu mét vuông) cho nguyên đơn ông Trương Văn B và bà Huỳnh Thị C, về ranh giới, mốc giới quyền sử dụng đất giữa các bên thực hiện theo kích thước và vị trí được thể hiện tại Bản trích đo địa chính số 44/TTKTTNMT của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C ngày 24/3/2022;
- Phía nguyên đơn được quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để hợp thức hóa phần đất nói trên theo quy định.
[3] Về chi phí thẩm định: Nguyên đơn tự nguyện chịu chi phí thẩm định, nguyên đơn đã nộp xong.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Trần Thị Phú Ú phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày (Mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án (Đương sự vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 277/2023/DS-ST
Số hiệu: | 277/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về