Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 246/2020/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 246/2020/DS-PT NGÀY 20/07/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 20 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 59/2020/TLPT- DS, ngày 30 tháng 01 năm 2020. Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 46/2019/DS-ST, ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 329/2020/QĐ-PT, ngày 01 tháng 3năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lâm Ngọc Ph, sinh năm 1960; Cư trú tại: Khóm 30/4, phường 2, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh (có mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1954; Cư trú tại: Khóm 30/4, phường 2, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Văn T, có:

Luật sư Đặng Văn Ch – Đoàn luật sư tỉnh Trà Vinh (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phan Thị Tuyết Ng, sinh năm 1958 (vợ ông Ph đã chết ngày 22/01/2017).

2. Anh Lâm Chí H, sinh năm 1982 (con ông Ph, có mặt).

3. Chị Lâm Thị Phương Th, sinh năm 1984 (con ông Ph, có mặt).

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Phan Thị Tuyết Ng, có: Ông Lâm Ngọc Ph (nguyên đơn); anh Lâm Chí H; chị Lâm Thị Phương Th; Ông Phan Văn B (cha bà Ng, có mặt), sinh năm 1938. Cùng cư trú tại khóm 30/4, phường 2, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh.

4. Chị Nguyễn Thị Ngọc H1, sinh năm 1982 (con ông T, vắng).

5. Bà Trần Thị Kim Th1, sinh năm 1956 (vợ ông T, vắng).

Cùng cư trú tại khóm 30/4, phường 2, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh.

6. Chị Nguyễn Thị Ngọc Th2, sinh năm 1980 (con ông T, vắng); cư trú tại khóm 2, phường 1, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh.

Người đại diện hợp pháp của bà Trần Thị Kim Th1, chị Nguyễn Thị Ngọc H1 và chị Nguyễn Thị Ngọc Th2: Ông Nguyễn Văn T. Là bị đơn (theo giấy ủy quyền ngày 27/9/2019, có mặt).

7. Ủy ban nhân dân thị xã DH.

Người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân thị xã DH: Ông Lê Vũ Ph, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã DH; cư trú tại khóm 1, phường 1, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt theo đơn đề ngày 01/10/2019).

- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn T, là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Lâm Ngọc Ph trình bày:

Gia đình ông Ph có thửa đất số 225, tọa lạc tại ấp Phước Bình, xã Long Toàn, huyện DH, tỉnh Trà Vinh (nay là khóm 30/4, phường 2, thị xã DH). Nguồn gốc đất là của ông bà để lại, gia đình ông Ph sử dụng từ năm 1983 đến nay. Ngày 30/9/1995 ông Ph được Ủy ban nhân dân huyện DH (nay là thị xã DH) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 2.190m2.

Thửa đất số 225 của ông Ph giáp ranh với thửa đất số 224 của ông Nguyễn Văn T ở hướng Bắc có hàng dừa làm ranh. Năm 2015 phát sinh tranh chấp ông Ph mới biết phần đất ông đang sử dụng thì Ủy ban nhân dân huyện DH đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn T. Phần đất này trước đây là ao nuôi cá do ông Ph đào lấy đất đắp nền nhà, năm 2010 ông Ph thuê người sang lắp một phần mương với số tiền 19.000.000 đồng. Phần mương còn lại hướng giáp Quốc lộ 53 hiện trạng vẫn do gia đình ông Ph sử dụng nuôi cá từ trước đến nay và giáp với hàng dừa của ông T.

Khi phát sinh tranh chấp, ông T tự ý đổ đất lắp thêm trên phần mương mà trước đây ông Ph đã sang lắp và trồng các loại cây như hiện trạng. Khi Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ ông Ph xác định ranh đất với ông T là ranh thẳng và giáp hàng dừa của ông T. Còn ông T thì chỉ trụ ranh ở hướng Đông từ trụ ranh ông Ph xác định trở về phần đất của ông Ph bằng 5,1m, trụ ranh ở hướng Tây từ trụ ranh ông Ph xác định trở về phần đất của ông Ph bằng 3,1m. Sau khi có kết quả đo đạc thể hiện phần C có diện tích 233m2 là thuộc thửa đất 224, nên ông T làm đơn yêu cầu ông Ph giao trả luôn phần đất này.

Vì thế, ông Ph khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết xác định ranh giới giữa thửa đất 225 của hộ ông Ph và thửa đất 224 của hộ ông T là giáp hàng dừa như khi Tòa án thẩm định ông Ph đã chỉ ranh, công nhận cho ông Ph được quyền sử dụng diện tích đất tranh chấp với ông T bằng 532,2m2. Do đất của ông Ph nhưng Ủy ban nhân dân huyện DH (nay là thị xã DH) đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn T nên yêu cầu xem xét hủy bỏ.

* Theo đơn khởi kiện (phản tố) đề ngày 03/01/2018 và quá trình tố tụng, bị đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:

Ông T được Nhà nước cấp quyền sử dụng diện tích đất 2.840m2, thửa số 224, tờ bản đồ số 1, tọa lạc tại khóm 30/4, phường 2, thị xã DH. Giáp thửa đất của ông T về hướng Nam là thửa đất số 225 của ông Ph.

Nguồn gốc thửa đất nêu trên do ông T nhận chuyển nhượng của bà Phan Thị L vào năm 1994. Khi chuyển nhượng bà L có làm văn bản viết tay nhưng bị thất lạc, khi đó bà L có chỉ ranh giáp với đất ông Ph tính từ hàng dừa của ông T hiện nay qua 01 cái mương đến hàng dừa mới đến đất giáp ông Ph.

Do ông đi làm ăn xa, ông Ph đã lắp lại mương và đốn bỏ hàng dừa giáp với đất ông Ph, còn lại hàng dừa hiện nay ông Ph cho rằng là ranh giữa hai thửa đất là không đúng. Năm 2016, khi phát sinh tranh chấp Ủy ban nhân dân xã LT hòa giải ông Ph thống nhất mương là đất của ông T, nên ông T thuê người sang lắp với số tiền 5.000.000 đồng và trồng chuối, tầm vong, dừa thì trồng xen kẽ hàng dừa trước đây đã có sẵn. Nay ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Ph, yêu cầu Tòa án công nhận cho ông T được quyền sử dụng diện tích đất như ông Ph kiện đòi ở phần A, đồng thời yêu cầu Tòa án công nhận cho ông T phần diện tích đất mà ông T yêu cầu phản tố bằng 233m2. Tổng diện tích đất đề nghị Tòa án công nhận cho ông T bằng 532,2m2 được thể hiện tại phần A và phần C theo kết quả đo đạc của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã DH đã cung cấp, vì phần đất này Ủy ban nhân dân huyện DH đã cấp quyền sử dụng cho ông T. Riêng đối với phần B diện tích 4,2m2 là thuộc thửa đất 225 của ông Ph, ông T đồng ý là đất của ông Ph nên không tranh chấp.

* Chị Lâm Thị Phương Th, anh Lâm Chí H, trình bày: Anh, chị là con của ông Ph, nay thống nhất với lời trình bày của ông Ph.

* Ông Phan Văn B trình bày: Ông là cha vợ của ông Ph, ông không có ý kiến gì về vụ án.

* Ý kiến của Ủy ban nhân dân thị xã DH tại văn bản số 184/UBND-NC ngày 22/02/2019 (bút lục 215, 216):

- Theo tư liệu địa chính năm 1991:

+ Thửa đất số 224, tờ bản đồ số 1, diện tích 2.840m2, loại đất TQ, tọa lạc tại ấp 30/4, xã Long Toàn, huyện DH (nay khóm 30/4, phường 2, thị xã DH) do ông Nguyễn Văn T kê khai, đăng ký.

+ Thửa đất số 225, tờ bản đồ số 1, diện tích 2.190m2, loại đất LNK, tọa lạc tại ấp 30/4, xã Long Toàn, huyện DH (nay khóm 30/4, phường 2, thị xã DH) do ông Lâm Ngọc Ph kê khai, đăng ký.

- Theo tư liệu địa chính năm 2008:

+ Thửa đất số 224 (theo tư liệu địa chính năm 1991) do ông Nguyễn Văn T kê khai đăng ký thành thửa đất số 02, tờ bản đồ số 14, diện tích 2.041,6 m2, loại đất ODT-CLN.

+ Thửa đất số 225 (theo tư liệu địa chính năm 1991) do ông Lâm Ngọc Ph kê khai đăng ký thành thửa đất số 04, tờ bản đồ số 14, diện tích 2.770,5 m2, loại đất LNK.

- Theo tư liệu địa chính năm 1983:

+ Thửa đất số 224, tờ bản đồ số 1 (theo tư liệu địa chính năm 1991) thuộc một phần thửa đất 274, tờ bản đồ số 1, diện tích 7.310m2, loại đất TC (thổ cư), tọa lạc tại ấp Phước Bình, xã Long Toàn, huyện DH (nay khóm 30/4, phường 2, thị xã DH) do Nông Trường 30/4 đăng ký sử dụng và một phần thửa đất 273, tờ bản đồ số 1 và 4, diện tích 301.350m2, loại đất Động cát.

+ Thửa đất số 225, tờ bản đồ số 1 (theo tư liệu địa chính năm 1991) thuộc một phần thửa đất 270, tờ bản đồ số 1 và 4, diện tích 5.950m2, loại đất MT (đất màu và đất thổ cư), đất tọa lạc tại ấp Phước Bình, xã Long Toàn, huyện DH (nay khóm 30/4, phường 2, thị xã DH) do ông Phan Văn Nhựt kê khai đăng ký và một phần thửa đất 273, tờ bản đồ số 1 và 4, diện tích 301,350m2, loại đất Động cát.

- Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

+ Đối với thửa đất 224 của ông Nguyễn Văn T: Ngày 08/4/1995, ông Nguyễn Văn T có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất đối với thửa đất 224, diện tích 2.840m2 và được Hội đồng đăng ký đất đai xã Long Toàn xét đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 1996, ông T được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2010, ông T có bổ sung quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất nên được cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng dựa trên cơ sở tư liệu địa chính năm 1991. Cũng trong năm 2010, thực hiện công tác giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 53, diện tích đất của ông T giảm 200m2 và được chỉnh lý biến động giảm vào năm 2015.

+ Đối với thửa đất 225 của ông Lâm Ngọc Ph: Ngày 08/4/1995, ông Lâm Ngọc Ph có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất đối với thửa đất 225, tờ bản đồ số 1, diện tích 2.190m2 và được Hội đồng đăng ký đất đai xã Long Toàn xét đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong năm 1995, ông Ph được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2010, thực hiện công tác giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 53, diện tích đất của ông Ph giảm 203,4m2 và được chỉnh lý biến động giảm vào ngày 07/6/2010. Năm 2012, ông Ph thực hiện biến động đất đai, tách thửa và chuyển mục đích sử dụng đất từ đất LNK sang đất ở nông thôn (ONT) diện tích 300m2, thuộc thửa đất 1909; thửa đất 225, diện tích còn lại được đổi số hiệu thửa đất thành thửa đất mới 1910, diện tích 1.686,6m2 và được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng dựa trên cơ sở tư liệu địa chính năm 1991.

Theo kết quả đo đạc thực tế của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã DH và tư liệu đo đạc năm 2008 cho thấy: Phần ranh giới thửa đất của ông T và ông Ph đang sử dụng là ranh thẳng. So sánh tư liệu địa chính năm 1991 là không đúng về hình thể thửa đất và thực tế diện tích. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T và ông Ph theo tư liệu địa chính năm 1991 là thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đại trà và không qua kiểm tra thực tế ranh giới sử dụng đất nên có sai sót.

Từ những cơ sở trên, Ủy ban nhân dân thị xã DH khẳng định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 224, tờ bản đồ số 1 (theo tư liệu địa chính năm 1991) cho ông Nguyễn Văn T và thửa đất 225, tờ bản đồ số 1 (theo tư liệu địa chính năm 1991) cho ông Lâm Ngọc Ph là không đúng về trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật đất đai.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 46/2019/DS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh đã quyết định:

- Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 37, Điều 39, Điều 147, Điều 158, Điều 165 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Áp dụng Điều 5, Điều 100 và Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Ngọc Ph, không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn T.

2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số hiệu BA129899 ngày 09/3/2010 của Ủy ban nhân dân huyện DH (nay thị xã DH) cấp cho hộ Nguyễn Văn T tại thửa đất 224, diện tích 2.840m2, tờ bản đồ số 1, loại đất ONT - LNQ, đất tọa lạc tại ấp 30/4, xã Long Toàn, huyện DH, tỉnh Trà Vinh (nay là khóm 30/4, phường 2, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh).

3. Công nhận cho ông Lâm Ngọc Ph cùng các thành viên trong hộ gia đình gồm: Bà Phan Thị Tuyết Ng, chị Lâm Thị Phương Th, anh Lâm Chí H được quyền sử dụng diện tích đất 532,2m2, thuộc một phần đất thửa 224, tờ bản đồ số 1, đất tọa lạc tại khóm 30/4, phường 2, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh.

Phần đất công nhận cho ông Lâm Ngọc Ph cùng các thành viên trong hộ gia đình được quyền sử dụng theo Sơ đồ khu đất kèm theo Công văn số 15/CN-TXDH ngày 13/3/2017 và Công văn số 177/CN-TXDH ngày 25/10/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã DH được đính kèm theo Bản án, cụ thể như sau:

- Phần A diện tích 299,2m2:

+ Hướng Đông giáp thửa đất 223, kích thước 5,1m.

+ Hướng Tây giáp Quốc lộ 53, kích thước 2,9m.

+ Hướng Nam có 02 đoạn một phần giáp phần C, có kích thước 61,9m và một phần giáp phần B, có kích thước 8,4m.

+ Hướng Bắc giáp thửa đất 224, có kích thước 70,6m.

- Phần C diện tích 233m2:

+ Hướng Đông giáp thửa đất 223, kích thước 3,5m.

+ Hướng Tây giáp phần B, kích thước 0m.

+ Hướng Nam giáp thửa đất 1910 có 05 đoạn hướng từ Đông sang Tây có kích thước lần lượt là 2,8m, 11,2m, 7,7m, 10,4m, 32,4m.

+ Hướng Bắc giáp phần A, có kích thước 61,9m.

4. Buộc ông Nguyễn Văn T cùng các thành viên trong hộ gia đình gồm: Bà Trần Thị Kim Th1, chị Nguyễn Thị Ngọc H1 và chị Nguyễn Thị Ngọc Th2 có trách nhiệm giao cho gia đình ông Lâm Ngọc Ph toàn bộ diện tích đất 532,2m2 nêu trên và toàn bộ các loại cây trồng có trên đất.

5. Buộc ông Lâm Ngọc Ph phải thanh toán tiền sang lắp đất mương và tiền giá trị cây trồng trên đất cho ông Nguyễn Văn T bằng 6.555.000 đồng.

Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm; Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; về lãi suất, về quyền và nghĩa vụ trong thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.

- Ngày 02 tháng 12 năm 2019 bị đơn ông Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo đối với bản án dân sự sơ thẩm số: 46/2019/DS-ST, ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.

Lý do kháng cáo: Không đồng ý toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, do nguồn gốc thửa đất 224 diện tích 2.840m2 là của Nông trường 30/4 cấp cho ông Huỳnh Hữu Nghĩa, ông Nghĩa sử dụng phần đất này cất nhà, trồng cây, đào ao nuôi cá cải tạo cuộc sống; sau đó gia đình ông T gom góp tích lũy mới có tiền nhận chuyển nhượng lại thửa đất 224, khi nhận giao đất chuyển nhượng vào năm 1994 có đầy đủ các chủ đất lân cận và đại diện Ban nhân dân ấp 30/4 nên đối với nguồn gốc đất là hợp pháp, rõ ràng. Nên án sơ thẩn hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đấ t cấp cho hộ ông T để công nhận một phần diện tích 532,2m2 của thửa 224 là thuộc quyền sử dụng của hộ ông Lâm Ngọc Ph là không đúng, vì thế ông T kháng cáo yêu cầu Tòa phúc thẩm: sửa án sơ thẩm, công nhận cho ông T quyền sử dụng toàn bộ thửa đất 224 đang t ranh chấp.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

- Người kháng cáo ông Nguyễn Văn T, trình bày: Giữ nguyên lý do và yêu cầu kháng cáo như đã nêu trên.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T cho rằng: Ranh giới thửa đất 224 của ông T và thửa 225 của Phúc là hàng dừa sau đó tới ao hàng dừa hiện nay không phải là ranh, hàng dừa làm ranh giới đã bị ông Ph đốn bỏ, tại Tòa ông Ph cũng thừa nhận có đốn 05 cây dừa; việc các nhân chứng do ông Ph cung cấp có xác định cụ thể hàng dừa hiện tại là ranh giữa 02 thửa đất là không đáng tin cậy do bà L là người chuyển nhượng thửa đất 224 cho ông T, bà L còn không nhớ rõ ranh giới là ở đâu thì các nhân chứng không thể biết cụ thể được, do đó Tòa sơ thẩm căn cứ lời khai các nhân chứng và trình bày của UBND thị xã DH để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ph là không đúng sự thật khách quan, cho nên đề nghị Hội đông xét xử chấp nhận kháng cáo của ông T sửa án sơ thẩm.

- Nguyên đơn ông Lâm Ngọc Ph, trình bày: Hàng dừa đốn bỏ là do ông Ph trồng trên đất ông Ph, khi đốn hàng dừa vợ, con ông T đều biết không tranh chấp, đất của ông Ph giáp đất ông T là hàng dừa hiện nay đang tồn tại có tuổi đời trên 40 năm, các nhân chứng đều biết và xác nhận nên đề nghị Tòa không chấp nhận kháng cáo của ông T. Giữ nguyên án sơ thẩm.

- Đại diện viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi thụ lý đến thời điểm hiện nay thấy rằng Thẩm phán; Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, không có vi phạm.

Đối với kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn T là không có căn cứ để chấp nhận, bởi: Khi xét xử Tòa sơ thẩm đã xem xét toàn diện chứng cứ nên quyết định không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông T, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ph là có căn cứ, đúng pháp luật, tại cấp phúc thẩm không có chứng cứ mới, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông T, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện tại hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ; ý kiến trình bày của các đương sự; căn cứ vào kết quả tranh tụng và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng: Tòa sơ thẩm xét xử ngày 21/11/2019 đến ngày 02/12/2019 bị đơn ông Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo nên kháng cáo của ông T là hợp lệ được xem xét tại cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

- Về nội dung:

[1] Đối với kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn T, là không có căn cứ để chấp nhận, bởi:

[1.1] Căn cứ vào Sơ đồ đo đạc thửa đất 224 và thửa đất 225 kèm theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ (bút lục 57a) và Sơ đồ khu đất kèm theo Công văn số 177/CN-TXDH ngày 25/10/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã DH (bút lục số 210) thì đất tranh chấp giữa ông Lâm Ngọc Ph với ông Nguyễn Văn T có 03 phần cụ thể như sau:

- Phần A diện tích 299,2m2 thuộc thửa đất 224 Ủy ban nhân dân huyện DH (nay là thị xã DH) đã cấp quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn T.

- Phần B diện tích 4,2m2 thuộc thửa đất 225 Ủy ban nhân dân huyện DH (nay là thị xã DH) đã cấp quyền sử dụng đất chohộ ông Lâm Ngọc Ph.

- Phần C diện tích 233m2 thuộc thửa đất 224 Ủy ban nhân dân huyện DH (nay là thị xã DH) đã cấp quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn T.

[1.2] Ông Lâm Ngọc Ph khai phần đất tranh chấp với ông Nguyễn Văn T thì ông Ph cùng gia đình sử dụng từ năm 1983 đến khi phát sinh tranh chấp là có thật, vì được bị đơn ông T thừa nhận. Giáp phần đất này về hướng Bắc trước đây là đất của Nông Trường 30/4, sau đó Nông Trường 30/4 cho ông Huỳnh Hữu Nghĩa, ông Nghĩa khi sử dụng đất có trồng hàng dừa giáp ranh đất của ông Ph, hàng dừa này hiện nay vẫn còn và do ông T sử dụng. Lời khai này của ông Ph là phù hợp với lời khai của người làm chứng như: Bà Huỳnh Thị Mỹ Lệ (BL07); ông Lê Minh Tâm (BL 08); Ông Trương Công Mil (BL 102), ông Phạm Công Triều (BL103), ông Dương Chí Đời (BL104); bà Phan Thị Ánh (BL 114).

[1.3] Mặc khác, tại lời khai ngày 12/01/2016 (BL10) ông Nguyễn Văn T khai: “đến năm 2008 ông T dẫn đoàn đo đạc tỉnh Trà Vinh đo đạc lại đất đai và ông vẫn thống nhất hàng dừa làm ranh chung nhưng khi phần diện tích đo đạc lại diện tích bị thiếu so với phần diện tích trước đây mà Ủy ban nhân dân huyện DH cấp cho tôi nên tôi không đồng ý hàng dừa làm ranh mà phải trả lại phần diện tích đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ủy ban nhân dân huyện DH cấp cho tôi”.

[1.4] Tại Sơ đồ đo đạc thửa đất 224 và thửa đất 225 kèm theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ (BL 57a) có trong hồ sơ vụ án thể hiện đất tranh có một phần ao nuôi cá. Tại phiên tòa sơ thẩm ông T khai đất ao hiện nay giáp hàng dừa của ông, đây là phần mương đã sang lắp còn lại, ông không có sử dụng mà do ông Ph sử dụng nuôi cá từ trước đến nay.

[2] Từ những nội dung nhận định ở mốc đơn [1.2], [1.3], [1.4] như trên, Tòa án sơ thẩm xác định: Thửa đất 224 của Nguyễn Văn T có nguồn gốc của Nông trường 30/4 được ông Huỳnh Hữu Ng1 khi đến sử dụng trồng hàng dừa làm ranh giáp với đất ông Lâm Ngọc Ph, hàng dừa này được thể hiện tại Sơ đồ đo đạc thửa đất 224 và thửa đất 225 kèm theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ (BL57a) có trong hồ sơ vụ án. Ủy ban nhân dân huyện DH (nay là Thị xã DH) khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không kiểm tra thực tế hiện trạng sử dụng của các bên nên đã cấp quyền sử dụng đất thể hiện tại phần A và phần C nêu trên cho hộ ông Nguyễn Văn T là không đúng chủ thể có quyền sử dụng đất. Vì vậy, ý kiến của Ủy ban nhân dân thị xã DH tại văn bản số 184/UBND-NC ngày 22/02/2019 (BL215, 216) khẳng định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 224 cho hộ ông Nguyễn Văn T và thửa đất 225 cho hộ ông Lâm Ngọc Ph không đúng về trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật đất đai là phù hợp với các tình tiết khách quan trong vụ án.

[3] Từ những nhận định trên, xét thấy cấp sơ thẩm đã nhận định và quyết định là có căn cứ, đúng pháp luật, tại cấp phúc thẩm không có căn cứ nào mới làm thay đổi nội dụng vụ án, nên theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Nguyễn Văn T, giữ nguyên án sơ thẩm.

[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo nên ông T phải nộp án phí phúc thẩm, tuy nhiên ông T là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp , quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử miễn án phí phúc thẩm cho ông T.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm; Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 308; Điều 34; các Điều 273, Điều 147, 148; 158, 165 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

- Áp dụng Điều 166, 650, 651 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 5, 26, 100, 203 Luật đất đai 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn T; giữ nguyên án sơ thẩm số 46/2019/DS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Ngọc Ph, không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn T.

2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành BA129899 ngày 09/3/2010 của Ủy ban nhân dân huyện DH (nay thị xã DH) cấp cho hộ Nguyễn Văn T tại thửa đất 224, diện tích 2.840m2, tờ bản đồ số 1, loại đất ONT - LNQ, đất tọa lạc tại ấp 30/4, xã Long Toàn, huyện DH, tỉnh Trà Vinh (nay là khóm 30/4, phường 2, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh).

3. Công nhận cho ông Lâm Ngọc Ph cùng các thành viên trong hộ gia đình gồm: Chị Lâm Thị Phương Th, anh Lâm Chí H, bà Phan Thị Tuyết Ng (bà Ng chết, nên phần bà Ng được hưởng là: Di sản) được quyền sử dụng diện tích đất 532,2m2, thuộc một phần đất thửa 224, tờ bản đồ số 1, đất tọa lạc tại khóm 30/4, phường 2, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh.

Phần đất công nhận cho ông Lâm Ngọc Ph cùng các thành viên trong hộ gia đình được quyền sử dụng theo Sơ đồ khu đất kèm theo Công văn số 15/CN-TXDH ngày 13/3/2017 và Công văn số 177/CN-TXDH ngày 25/10/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã DH được đính kèm theo Bản án, cụ thể như sau:

- Phần A diện tích 299,2m2:

+ Hướng Đông giáp thửa đất 223, kích thước 5,1m.

+ Hướng Tây giáp Quốc lộ 53, kích thước 2,9m.

+ Hướng Nam có 02 đoạn một phần giáp phần C, có kích thước 61,9m và một phần giáp phần B, có kích thước 8,4m.

+ Hướng Bắc giáp thửa đất 224, có kích thước 70,6m.

- Phần C diện tích 233m2:

+ Hướng Đông giáp thửa đất 223, kích thước 3,5m.

+ Hướng Tây giáp phần B, kích thước 0m.

+ Hướng Nam giáp thửa đất 1910 có 05 đoạn hướng từ Đông sang Tây có kích thước lần lượt là 2,8m, 11,2m, 7,7m, 10,4m, 32,4m.

+ Hướng Bắc giáp phần A, có kích thước 61,9m.

4. Buộc ông Nguyễn Văn T cùng các thành viên trong hộ gia đình gồm: Bà Trần Thị Kim Th1, chị Nguyễn Thị Ngọc H1 và chị Nguyễn Thị Ngọc Th2 có trách nhiệm giao cho gia đình ông Lâm Ngọc Ph toàn bộ diện tích đất 532,2m2 nêu trên và toàn bộ các loại cây trồng có trên đất.

5. Các đương sự có quyền, nghĩa vụ kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

6. Buộc ông Lâm Ngọc Ph phải thanh toán tiền sang lắp đất mương và tiền giá trị cây trồng trên đất cho ông Nguyễn Văn T bằng 6.555.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

7. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn T được miễn.

8. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm; Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

9. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 246/2020/DS-PT

Số hiệu:246/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về