Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 234/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 234/2023/DS-PT NGÀY 26/04/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 26 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí M mở phiên tòa xét xử phúc thẩm trực tuyến, công khai vụ án dân sự thụ lý số 645/2022/TLPT-DS ngày 15 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp QSDĐ; Hủy GCN QSDĐ; tuyên bố HĐCN QSDĐ vô hiệu”.

Phiên tòa được tiến hành tại 02 điểm cầu: điểm cầu trung tâm là Phòng xét xử trực tuyến của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí M; Điểm cầu thành phần là Phòng xét xử trực tuyến của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

Các đương sự tham gia phiên tòa:

1/ Nguyên đơn: Bà Trần Thị Tuyết M, sinh năm 1950; Địa chỉ: số 241/2 P, Phường 1, quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí M. (vắng mặt)

Người đại diện theo ủy quyền của bà M: bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1981. Địa chỉ: số 09 đường H, Phường 14, quận B Thạnh, Thành phố Hồ Chí M. (có mặt)

2/ Bị đơn:

2.1/ Ông Văn Hòa C, sinh năm 1938; Địa chỉ: số 45, ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

Người đại diện theo ủy quyền của ông C: Ông Trần Văn G, sinh năm 1958(có mặt); Địa chỉ: tổ 2, ấp V, xã V, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên G; Bà Văn Thị Ánh S, sinh năm 1977(có mặt); Địa chỉ: số 45, ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng (theo Giấy ủy quyền ngày 19/03/2021).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông C: Luật sư Hà Văn V thuộc VPLS Hà Văn V – Đoàn luật sư tỉnh V Long. (có mặt) Địa chỉ: số 66A ấp L, xã T, huyện Long Hồ, tỉnh V Long.

2.2/ Ông Trần Văn M, sinh năm 1963; Địa chỉ: số 5/26 P, Khóm 3, Phường 8, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

3/ Ngườỉ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1/ Ông Văn Tấn P, sinh năm 1974; (có mặt)

3.2/ Bà Văn Thị Tuyết S, sinh năm 1980; (vắng mặt)

3.3/ Bà Văn Thị Tuyết L, sinh năm 1979; (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: số 313/24 Nguyễn Văn C (số cũ 679E40 Nguyễn Kiệm), Phường 3, Quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí M.

3.4/ Bà Văn Thị Tuyết Th, sinh năm 1976; Địa chỉ: số B9-06, Chung cư Cảnh Viên 2, S1-2, Khu phố 6, Phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí M. (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của ông P, bà S và bà Th: Bà Văn Thị Tuyết L (theo Giấy ủy quyền ngày 21/8/2017). (vắng mặt)

3.5/ Bà Văn Thị Ph (tên khác Văn Ngọc Phẩn). (vắng mặt) Địa chỉ: số 120 Lý Thường Kiệt, khóm 4, Phường 1, thị xã V. Châu, tỉnh Sóc Trăng.

3.6/ Bà Triệu Thị Ngọc D, sinh năm 1990; Địa chỉ: ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

3.7/ Ông Văn Việt N, sinh năm 1966; (vắng mặt)

3.8/ Ông Văn Hòa B, sinh năm 1968; (vắng mặt)

3.9/ Ông Văn Thống Nh, sinh năm 1969; (vắng mặt)

3.10/ Bà Văn Thị Ánh H, sinh năm 1971; (vắng mặt)

3.11/ Bà Văn Thị Ánh Ng, sinh năm 1976; (vắng mặt)

3.12/ Bà Văn Thị Ánh S, sinh năm 1977; (có mặt)

3.13/ Ông Văn Niệm Kh, sinh năm 1997; (vắng mặt)

3.14/ Ông Văn Thế L, sinh năm 1998; (vắng mặt)

3.15/ Ông Nguyễn Văn Nh, sinh năm 1993; (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Số 45, ấp M, xã V Hảỉ, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng.

3.16/ Ông Diệp Văn G (tên khác Quang), sinh năm 1978; Địa chỉ: ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng, (vắng mặt)

3.17/ Bà Ngô Huỳnh Q, sinh năm 1981; Địa chỉ: ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng, (vắng mặt)

3.18/ Ủy ban nhân dân thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng; Địa chỉ: số 01 đường 30/4, Khóm 1, phường 1, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Sơn Ngọc Th - Phó Chủ tịch (có đơn xin vắng mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: ông Lê Hoàng V – Phó trưởng phòng TNMT thị xã V Châu. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 27/6/2017 (BL 01), Biên bản ghi lời khai ngày 21/07/2017 (BL 28), Bản tự khai ngày 02/03/2021 (BL 583) của nguyên đơn Trần Thị Tuyết M, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn trình bày:

Nguyên chồng của bà Trần Thị Tuyết M là ông Văn Tấn M (chết ngày 10/6/2015) được hưởng thừa kế của cha ruột là ông Văn Quang Ng (chết năm 1988) phần đất thuộc thửa số 56, tờ bản đồ số 20, diện tích 1,602m2 và thửa số 49, tờ bản đồ số 98, diện tích 406m2, cùng tọa lạc ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng. Nguồn gốc đất là của ông bà nội ông M là ông Văn Quang Canh (chết năm 1927) và bà Triệu Thị Cảo (chết năm 1957). Ông Canh, bà Cảo khi chết giao đất lại cho con là ông Ng và con dâu là bà Trương Thị D quản lý, sử dụng đất. Đến năm 1948, ông Ng giao đất lại cho con là ông M quản lý, sử dụng đất (cho bằng miệng).

Năm 1954, ông M đi bộ đội tập kết ra Bắc và giao đất lại cho ông Ng quản lý giùm (giao bằng miệng), sau đó ông Ng giao đất lại cho em ông M là ông Trần My Răng quản lý trông coi giùm (hiện nay ông Răng đã chết). Tháng 6/1975, ông M về quê gặp lại ông Ng và được ông Ng giao lại đất cho quản lý, sử dụng (giao bằng miệng), ông Ng có nói với ông M vào năm 1969 ông Ng có cho ông Năm Quơn (cha ông Văn Hòa C) mượn đất thuộc 02 thửa đất nêu trên để trồng cây thuốc cá do ông Quơn nghèo khổ không có đất trồng trọt, việc này ông M cũng đồng ý. Khi đó, ông M có đến gặp ông Quơn và có nói với ông Quơn cứ làm khi nào ông M cần sẽ lấy lại đất, việc này ông Quơn cũng đồng ý. Năm 1977, ông Quơn bỏ xứ đi Gò C sinh sống và chết vào năm 1980, phần đất ông Ng cho ông Quơn mượn trước đây bỏ trống.

Từ năm 1987 đến năm 1990, bà M về quê ông M cất 01 căn nhà ở để khám và điều trị bệnh cho người dân, trong khoảng thời gian này phần đất nêu trên chưa có ai xây dựng hay lấn chiếm. Sau năm 1990, bà M không khám bệnh nữa nhưng mỗi tháng có về quê kiểm tra đất đai và thăm mồ mả ông bà.

Năm 1990, ông M có họp các con được chia đất lại và thảo văn bản với nội dung: văn bản đất đã được ông Canh phân chia cho các con (văn bản do bà Văn Thị Tuyết Th viết), văn bản đã được những người thừa kế hưởng phần đất ký tên nhận đất nhằm xác định lại từng người hưởng đất đã được ông Canh phân chia, tránh cãi vã gây mất đoàn kết gia tộc.

Tháng 12/1991, ông C tự ý chiếm đất, không cho phép vào đất canh tác trồng thuốc cá (để bỏ xuống hầm tôm) khoảng được 02 đến 03 năm thì không trồng nữa mà bỏ đất trống. Ông M nhiều lần về quê họp mặt thân tộc, những người được nhận phân chia đất gia tộc, có mời ông C nhưng nhiều lần ông C không đến. Năm 1992, 1994 ông M viết giấy yêu cầu ông C trả lại đất nhưng ông C không trả. Năm 1996, ông C lén đi đăng ký quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân xã V đối với thửa số 56, tờ bản đồ số 20, tọa lạc ấp M, xã V, huyện V Châu, trong khi gia đình ông M không biết, Ủy ban nhân dân xã V không xác minh và không thông báo cho gia đình ông M biết. Ông M phát hiện ông C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên mới xảy ra tranh chấp. Tháng 4/2005, ông M có yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết nhưng khi ông M trình bày yêu cầu ông C trả lại đất thì ông C tự ý bỏ về.

Ông C đi tham gia bộ đội đến năm 1975 mới về sống tại địa phương. Căn nhà cũ của ông C ở gần Giồng Chùa đem bán và chuyển sang phần đất tranh chấp trên ở mà không xin ý kiến ai, ông C có cất nhà lá trên đất từ năm 2005, đến năm 2007 xây nhà tường ở đến nay.

Phần đất của ông M có chiều ngang 12,5m, chiều dài hơn 200m nhưng do lộ Phủ Yết đi qua nên đất đã chia làm 02 phần:

+ Phần giáp kênh Giồng Chùa thuộc thửa số 49, tờ bản đồ số 98, diện tích 406m2. Phần đất này bà Văn Thị L (cô của ông M) tự ý lấy bán cho bà Văn Thị Ph. Đến năm 2014, bà Ph gọi điện thoại gặp ông M yêu cầu ký tên bán đất để bà đi làm giấy tờ, ông M có nói không bán đất cho ai nên không đồng ý ký tên. Sau đó, ông M có về quê gặp bà L để hỏi việc bà L tự ý lấy đất của ông M bán mà không hỏi ý kiến ông M, bà L nói bà L lấy bán thì làm sao, bà L chết năm 2012. Mặc dù bà Ph biết rõ đất này ông M quản lý, nhưng đến năm 2015, bà Ph bán lại đất cho ông Trần Văn M bằng giấy tay (phần đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).

- Phần phía trên đất Nổng Cát (hướng đông) thuộc thửa số 56, tờ bản đồ số 20, diện tích 1.602m2 do ông C tự ý chiếm đất (phần đất này ông C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1996).

Nay bà Trần Thị Tuyết M yêu cầu Tòa án giải quyết:

+ Buộc ông Văn Hòa C trả lại phần đất diện tích 1.602m2 thuộc thửa số 56, tờ bản đồ số 20, tọa lạc ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng.

+ Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C658049 do Ủy ban nhân dân huyện V Châu (nay là thị xã V Châu) cấp cho ông Văn Hòa C vào năm 1996 đối với phần đất diện tích 1.602m2 thuộc thửa số 56, tờ bản đồ số 20, tọa lạc ấp M, xã V Hảỉ, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng.

+ Buộc ông Trần Văn M trả lại phần đất diện tích 406m2 thuộc thửa số 49, tờ bản đồ số 98, tọa lạc ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng.

+ Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (giấy tay) vào năm 2015 giữa bà Văn Thị Ph với ông Trần Văn M là vô hiệu.

Theo Biên bản lấy lời khai ngày 09/08/2017, ngày 21/11/2018 (BL 64, 393, 394), Bản tự khai ngày 26/02/2021 (BL 588) của bị đơn Văn Hòa C, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Trần Văn G và bà Văn Thị Ánh S trình bày:

Phần đất tranh chấp diện tích 1.602m2, thuộc thửa số 56, tờ bản đồ số 20, tọa lạc ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng trước đây ông Văn Quang Ng là người trực tiếp quản lý, sử dụng. Đến năm 1976, ông Ng cho ông C phần đất trên với diện tích ngang 12m, dài 150m (từ Nổng Cát đến Lộ Đal), lúc cho đất có làm giấy tờ và có người chứng kiến nhưng do gặp bão số 5 nên giấy tờ đã thất lạc và những người chứng kiến hiện nay cũng đã chết hết. Khi cho đất các con của ông Ng không có ý kiến gì. Ông là người trực tiếp quản lý, sử dụng đất từ năm 1976 đến nay. Năm 2004, ông có xây dựng một căn nhà tường trên đất, đến năm 2005 vợ ông chết có xây 01 ngôi mộ cho vợ ông, ngoài ra còn có 03 ngôi mộ khác. Cũng khoảng năm 2005, ông M có đến yêu cầu ông trả lại đất nhưng ông không đồng ý, vì phần đất này ông Ng đã cho ông. Việc ông sử dụng đất, xây dựng nhà cửa, xây mộ cho vợ ông không có ai ngăn cản. Khoảng năm 2015, ông có cho bà Ngô Thị Q thuê đất với giá 2.500.000đ/năm, nhưng hiện nay bà Q đã trả, không còn thuê. Từ khi sử dụng đất đến nay ông là người nộp thuế đối với phần đất trên nhưng các biên lai thu thuế hiện nay ông không còn giữ. Năm 2016, bà M kiện ra xã mới phát sinh tranh chấp.

Đối diện với phần đất tranh chấp (cách Lộ đal - trở ra sông Giồng Chùa) là phần đất bà M tranh chấp với ông M, diện tích 406m2, thuộc thửa số 49, tờ bản đồ số 98, diện tích đất này cũng có nguồn gốc của ông Văn Quang Ng, trước năm 1975 ông Ng cho em ruột là bà Văn Thị L, sau đó bà L chuyển nhượng cho cháu ruột là bà Văn Thị Ph. Ngày 05/03/2015, bà Ph chuyển nhượng cho ông Trần Văn M và bà Triệu Thị Ngọc D.

Ngày 22/10/1996, UBND huyện (nay thị xã) V Châu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C658049 cho ông C diện tích 1.390m2, thuộc thửa số 84, tờ bản đồ số 04 là cấp bao gồm thửa số 56, tờ bản đồ số 20 và thửa số 49, tờ bản đồ số 98, do ông đứng tên người sử dụng đất nên khi bà Ph chuyển nhượng đất cho ông M nhờ ông đứng tên chuyển nhượng để ông M dễ làm thủ tục chuyển quyền; việc thỏa thuận chuyển nhượng, trả tiền và nhận tiền là giữa bà Ph với ông M, ông không biết và không liên quan.

Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Tuyết M về việc, yêu cầu ông giao trả lại phần đất tại thửa số 56, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng.

Theo Biên bản lấy lời khai ngày 21/11/2018 (BL 395) của bị đơn Trần Văn M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Triệu Thị Ngọc D, trình bày:

Phần đất tranh chấp diện tích 406m2, thuộc thửa số 49, tờ bản đồ số 98, tọa lạc ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng, là ông nhận chuyển nhượng của bà Văn Thị Ph vào ngày 05/03/2015 với giá 80.000.000đồng, trong việc chuyển nhượng có làm giấy tay. Ông nhận chuyển nhượng đất của bà Ph nhưng do ông C là người đứng tên đất nên giấy chuyển nhượng cho ông C ký để làm thủ tục sang tên đất, bà Ph là người nhận số tiền chuyển nhượng 80.000.000đồng, việc bà Ph không thừa nhận chuyển nhượng đất cho chúng tôi mà cho rằng ông C chuyển nhượng đất là không đúng.

Theo Biên bản lấy lời khai ngày 08/01/2018 (BL 82) của người có quyền và nghĩa vụ liên quan Văn Thị Ph, trình bày:

Bà biết nội dung đơn khởi kiện của bà M và lời trình bày của bà M là không đúng. Nguồn gốc phần đất tranh chấp của ông bà có từ lâu, sau đó bà biết ông Ng sử dụng, ông C sử dụng từ năm 1975, bà không có sử dụng phần đất tranh chấp, nhưng bà có san lấp mặt bằng do ông C nhờ. Phần đất tranh chấp theo bà M trình bày bà chuyển nhượng cho ông M là không có, sự thật đất này do ông C chuyển nhượng, bà chỉ nhận một phần tiền do bà cải tạo san lấp mặt bằng phần đất đó, còn giấy tờ do ông C làm.

Bà không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Tuyết M vì bà không có liên quan trong vụ án này. Đồng thời vì lý do sức khỏe, bà yêu cầu Tòa án các cấp không triệu tập bà tham gia phiên tòa.

Theo Biên bản lấy lời khai ngày 27/12/2021 (BL 637) của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngô Huỳnh Q và ông Diệp Văn G, trình bày:

Nguyên năm 2017, bà Q và chồng (Diệp Văn G) có thuê đất của ông C, phía sau nhà ông C khoảng 500m2 để phơi con ruốc, thuê được khoảng 01 năm thì trả lại, nay không còn thuê nên không còn liên quan đến vụ án. Bà Q, ông G yêu cầu Tòa án không triệu tập ông, bà tham gia phiên tòa.

Theo C văn số 40/CV.CNVPĐKĐĐ ngày 06/04/2018, số 169/CV- CNVPĐK.ĐĐ ngày 19/03/2021, số 253-CV.CNVPĐICĐĐ ngày 19/04/2021, số 561/CV-CNVC ngày 21/09/2021 và số 805/CV.CNVC ngày 21/12/2021 (BL 103, 612, 609, 619, 599) và trong quá trình giải quyết, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân thị xã V Châu có ý kiến:

Căn cứ C yăn số 125/2018/CV.TA ngày 19/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Văn Hòa C năm 1996 hiện không còn lưu giữ tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã V Châu nên không đủ cơ sở để cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất của ông Văn Hòa C. Hiện nay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C658049 ngày 22/10/1996 do Ủy ban nhân dân huyện V Châu (nay là thị xã V Châu) cấp cho ông Văn Hòa C vẫn còn giá trị pháp lý, không bị thu hồi, thay thế bởi giấy chứng nhận khác.

Căn cứ Thông báo số 192/2021/TB.TA ngày 13/01/2021 và số 344/2021/TB.TA ngày 14/04/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, theo sổ địa chính thì hộ ông C được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C658049 ngày 22/10/1996, thửa đất số 84, tờ bản đồ số 04, diện tích 1.390m2 (đất ở nông thôn 300m2, đất trồng cây hàng năm khác 1,090m2). Còn thửa đất số 56, tờ bản đồ số 20, diện tích 406m2 và thửa đất số 49, tờ bản đồ số 98, diện tích 1.602,1m2, tại ấp M, xã V, thị xã V Châu theo số liệu đo đạc chính quy thì thửa đất số 56, tờ bản đồ số 20 do bà Văn Thị Ánh S đứng tên đăng ký biến động và thửa đất số 49, tờ bản đồ số 98 do ông Nguyễn Th P đăng ký quyền sử dụng đất, theo hồ sơ dự án chưa được cấp giấy. Việc bà M yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 56, tờ bản đồ số 20, thửa 49, tờ bản đồ số 98 là chưa có cơ sở, lý do 02 số thửa đất này chưa được cấp giấy; UBND thị xã V Châu chỉ cấp cho hộ ông C Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 006/C 658049 ngày 22/10/1996 , thửa đất số 84, tờ bản đồ số 04, diện tích 1.390m2, vị trí đất tại ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng. Giấy chứng nhận cấp cho hộ ông C là đúng đối tượng, đúng quy định pháp luật. Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình cá nhân, giai đoạn 1991 - 1997 đăng ký cấp đại trà, chưa có bản đồ địa chính có tọa độ.

Thực hiện Thông báo số 2276/2021/TB-TA ngày 09/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng. Qua kiểm tra bản đồ, thửa 56, tờ bản đồ số 20 và thửa 49, tờ bản đồ số 98 khi đo đạc bản đồ đo đạc chính quy năm 2015 được tách ra từ thửa đất số 84, tờ bản đồ số 04 (cũ). Diện tích thực tế có tăng 618m2 là do giai đoạn 1991 - 1997 đăng ký theo bản đồ số hóa ảnh hàng không để thực hiện cấp giấy chứng nhận, do đó có sai số lớn.

Theo các Tờ trình nguồn gốc đất cùng ngày 21/08/2017 của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn Tấn P, bà Văn Thị Tuyết S và bà Văn Thị Tuyết Th (BL 84, 87, 90), trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền là bà Văn Thị Tuyết L trình bày: Các ông, bà thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của nguyên đơn Trần Thị Tuyểt M như đã nêu trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn Việt N, Văn Hòa B, Văn Thấng Nh, Văn Thị Ánh H, Văn Thị Ánh Ng, Văn Niệm Kh, Văn Thế L và Nguyễn Văn Nh: Không có ý kiến trình bày và không tham gia các phiên họp, phiên tòa.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 54/2022/DS-ST ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng quyết định:

Căn cứ vào các khoản 3 và 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 37, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 266 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;

Áp dụng các Điều 26 và 166 Luật Đất đai năm 2013, các Điều 163, 164 và 166 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tu yên xử :

1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Tuyết M về việc yêu cầu ông Văn Hòa C trả lại phần đất diện tích 1.550,3m2 (theo kết quả đo đạc thực tế) tại thửa đất số 56, tờ bản đồ số 20 (thuộc một phần trong thửa đất cũ số 84, tờ bản đồ cũ số 04), tọa lạc ấp M, xã V, huyện V Châu (nay là thị xã V Châu), tỉnh Sóc Trăng.

(Phần đất này có số đo, tứ cận như sơ đồ hiện trạng kèm theo bản án) 2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Tuyết M về việc yêu cầu ông Trần Văn M trả lại phần đất diện tích 358.9m2 (theo kết quả đo đạc thực tế) tại thửa đất số 49, tờ bản đồ số 98 (thuộc một phần trong thửa đất cũ số 84, tờ bản đồ cũ số 04), tọa lạc ấp M, xã V, huyện V Châu (nay là thị xã V Châu), tỉnh Sóc Trăng.

(Phần đất này có số đo, tứ cận như sơ đồ hiện trạng kèm theo bản án) 3/ Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Tuyết M về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C658049 (số vào sổ cấp giấy 0006) do Ủy ban nhân dân huyện V Châu (nay là thị xã V Châu) cấp cho hộ ông Văn Hòa C vào ngày 22/10/1996 đối với phần đất tại thửa đất cũ số 84, tờ bản đồ cũ số 04 (nay là thửa đất số 56, tờ bản đồ số 20 và thửa đất số 49, tờ bản đồ số 98), tọa lạc ấp M, xã V, huyện V Châu (nay là thị xã V Châu), tỉnh Sóc Trăng.

4/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Tuyết M về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (giấy tay) vào năm 2015 giữa bà Văn Thị Ph với ông Trần Văn M là vô hiệu.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo theo luật định.

- Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Trần Thị Tuyết M (là nguyên đơn trong vụ án) kháng cáo, đề nghị phúc xử sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận theo đơn khởi kiện của nguyên đơn. Tại tòa, bà Nguyễn Thị M đại diện cho bà M vẫn giữ theo yêu cầu kháng cáo như trên.

- Tại tòa, đại diện cho phía bị đơn thì đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bà M, giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí M đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị Tuyết M, giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đơn kháng cáo của bà Trần Thị Tuyết M được làm và nộp trong thời hạn luật định nên đây là kháng cáo hợp lệ.

[2] Xét về nội dung vụ án thì thấy:

- Theo đơn khởi kiện thì bà Trần Thị Tuyết M cho rằng phần đất tranh chấp thuộc thửa số 56 tờ bản đồ số 20 diện tích 1.602m2; Thửa 49 tờ bản đồ số 98 diện tích 406m2 tọa lạc tại ấp M, xã V, thị xã V Châu, tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc là của ông Văn Quang Canh (chết 1927), bà Triệu Thị Cảo (chết 1957) để lại cho con là Văn Quang Ng, con dâu là Trương Thị D quản lý, sử dụng. Đến năm 1948, ông Ng giao lại cho con là Văn Tấn M (ông Tấn M là chồng của bà M – nguyên đơn trong vụ án), việc tặng cho vào năm 1948 thì cho bằng miệng, không lập giấy tờ. Đến năm 1954, ông Tấn M đi tập kết ra bắc nên giao lại cho ông Ng, ông Ng giao lại cho Trần My Răng (em của ông Tấn M) quản lý, sử dụng. Ông Răng chết không rõ năm. Đến tháng 6/1975, ông Tấn M về quê và được ông Ng giao lại đất trên cho ông Tấn M, nhưng trước đó vào năm 1969 thì ông Ng có cho ông Năm Quơn (cha của ông C) mượn 02 thửa đất trên để trồng cây thuốc cá, ông Tấn M có đến gặp ông Năm Quơn nói lại sự việc trên và vẫn để cho ông Năm Quơn sử dụng đất, khi nào cần thì ông Tấn M sẽ lấy lại. Năm 1977 thì ông Quơn về Gò C sinh sống và chết năm 1980 nên phần đất trên bỏ trống. Năm 1987 đến năm 1989 thì bà M có về cất 01 căn nhà để ở và làm phòng khám bệnh. Đến năm 1990 thì bà M không còn ở tại nhà trên nhưng hàng năm vẫn về thăm mộ ông bà. Tháng 12/1991 thì ông Văn Hòa C vào chiếm đất. Từ năm 1992 đến năm 1994 ông Tấn M có nhiều lần yêu cầu ông C trả lại đất nhưng ông C không trả. Năm 1996 thì ông C đăng ký cấp GCN QSDĐ. Tháng 4/2005, ông Tấn M có yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết tranh chấp, trong lúc đang hòa giải thì ông C bỏ về nên chưa giải quyết xong. Năm 2005 ông C cất nhà lá, đến năm 2007 thì xây dựng nhà tường, nên bà yêu cầu ông C trả lại thửa đất số 56 tờ bản đồ số 20 diện tích 1.602m2 tại ấp M, xã V, thị xã V Châu; Yêu cầu hủy GCN QSDĐ số C658049 do UBND huyện V Châu (nay là thị xã V Châu) cấp cho ông Văn Hòa C năm 1996; và yêu cầu buộc ông Trần Văn M trả lại diện tích đất 406m2 thuộc thửa số 49 tờ bản đồ số 98 thuộc ấp M, xã V, thị xã V Châu (phần đất do bà Văn Thị L viết giấy tay bán lại cho bà Văn Thị Ph, bà Ph bán lại cho ông Trần Văn M năm 2015).

- Án sơ thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện của bà M về việc yêu cầu ông C, ông Trần Văn M trả lại cho bà 02 thửa đất nêu trên, cũng như xử bác yêu cầu hủy GCN QSDĐ số C658049 do UBND huyện V Châu (nay là thị xã V Châu) cấp cho ông Văn Hòa C năm 1996.

HĐXX xét thấy:

- Theo biên bản thẩm định tại chỗ, biên bản định giá và sơ đồ hiện trạng đất lập ngày 27/12/2021 thì thể hiện thửa đất số 84 tách thành thửa 56 và thửa 49 có tranh chấp với ông Văn Hòa C có diện tích 1.550,3m2, nay thuộc thửa 56 tờ bản đồ số 20 diện tích như trên, do ông Văn Hòa C đang quản lý, sử dụng. Năm 2004 thì ông C có xây dựng nhà kiên cố trên đất, có trồng cây…trên đất có 04 ngôi mộ (02 ngôi mộ đá, 02 ngôi mộ đất); còn thửa số 49 tờ bản đồ số 98 diện tích 358,9m2 do ông Trần Văn M đang quản lý, sử dụng. Ông Trần Văn M có xây dựng hàng rào xung quanh.

- Về nguồn gốc đất: phần đất trên có nguồn gốc là của ông bà nội của ông Tấn M để lại. Theo ông Tấn M lúc còn sống khai, vào năm 1969 thì ông Văn Quang Ng (cha của ông Tấn M) có cho ông Năm Quơn (cha của ông C) mượn đất để sử dụng. Năm 1954, ông Tấn M đi tập kết ra bắc, sau năm 1975 khi ông về thì ông có gặp ông Quơn, ông C đòi lại đất. Tháng 4/2005, ông Tấn M có nhờ UBND xã V giải quyết tranh chấp nhưng ông C không tham dự mà bỏ về nên không giải quyết được.

- Theo lời khai của ông Văn Hòa C thì phần đất ông đang sử dụng có diện tích 1.550,3m2 nêu trên do ông Quơn (cha của ông C) sử dụng từ năm 1969, sau ngày 30/4/1975 thì đến ông C sử dụng. Vào ngày 24/5/1995 thì ông có đơn đăng ký cấp GCN QSDĐ và được UBND huyện V Châu (nay là thị xã V Châu) cấp GCN QSDĐ cho ông theo GCN QSDĐ số C658049 ngày 22/10/1996, thửa số 84 tờ bản đồ số 04. Đến năm 2015 tách thành thửa 56 tờ bản đồ số 20 diện tích 1.550,3m2;

- Đối với thửa số 49 tờ bản đồ số 98 diện tích 358,9m2 mà bà M tranh chấp với ông Trần Văn M, theo ông Trần Văn M khai do cụ Văn Thị L chuyển nhượng cho bà Văn Thị Ph, bà Ph chuyển nhượng lại cho ông Trần Văn M, nên ông không đồng ý theo đơn khởi kiện của bà M.

Như trên thể hiện thì phần đất tranh chấp có nguồn gốc của ông Văn Quang Canh (chết 1927), bà Triệu Thị Cảo (chết 1957) để lại. Theo lời khai của ông Tấn M lúc còn sống cho rằng năm 1969 thì ông Văn Quang Ng (cha của ông Tấn M) cho ông Năm Quơn mượn sử dụng nhưng không có giấy tờ cho mượn, không được ông C thừa nhận. Bà Trần Thị Tuyết M kiện đòi lại đất cho rằng đất được cha mẹ chồng cho lại chồng là ông Văn Tấn M nhưng không có giấy tờ để chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của người được hưởng di sản thừa kế. Do ông C có quá trình sử dụng đất từ sau năm 1975, được UBND cấp QSDĐ cho ông C, nên án sơ thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện của bà M đòi ông C giao trả lại phần đất nêu trên là có căn cứ.

- Đối với phần đất của ông Trần Văn M sử dụng cũng vậy, bà M không chứng minh được quyền sở hữu hợp pháp của mình, còn ông Trần Văn M thì nhận chuyển nhượng từ bà Văn Thị Ph từ năm 2015.

- Theo lời khai của ông Lê Văn M là con của bà Văn Thị L (tại BL 397). Ông Lê Văn M khai, phần đất trên bà L mẹ của ông đã chuyển nhượng cho bà Ph, nên ông không còn liên quan gì nữa.

- Theo lời khai của bà Văn Thị Ph (tại BL 82). Bà Ph khai đất do ông C quản lý, ông C nhờ bà san lấp, khi ông C chuyển nhượng lại cho ông M thì bà chỉ nhận lại tiền công san lấp, còn giấy tờ do ông C làm.

- Lời khai của ông Đoàn Văn Đùa – Trưởng ban nhân dân ấp M lúc đó xác định: đất của bà L, bà L chuyển nhượng cho bà Ph, bà Ph chuyển nhượng lại cho ông Trần Văn M, bà Triệu Thị Ngọc D theo giấy tay ngày 05/3/2015 có nhờ ông xác nhận, nhưng đất do ông C đứng tên nên ông hướng dẫn cho ông Trần Văn M khi làm giấy nhờ ông C ký tên (BL 396).

- Lời khai của ông Lê Văn M phù hợp với lời khai của ông Đùa, phù hợp với lời khai của ông C, ông Trần Văn M (người mua đất của bà Ph), nên có căn cứ để xác định diện tích đất 358,9m2 mà bà Trần Thị Tuyết M đòi ông Trần Văn M trả lại có nguồn gốc là của bà Văn Thị L, bà L chuyển nhượng cho bà Ph, bà Ph chuyển nhượng cho ông Trần Văn M thông qua việc ông C ký giấy tờ bán đất cho ông Trần Văn M, nên phần đất trên không coi là di sản của ông Văn Tấn M (chồng bà M) chết để lại, nên án sơ thẩm xử bác yêu cầu của bà M đòi ông Trần Văn M trả lại cho bà phần đất như trên là có căn cứ.

- Chấp nhận theo quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị Tuyết M.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

[2] Áp dụng các khoản 3 và 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 37, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 266 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; các Điều 26 và 166 Luật Đất đai năm 2013, các Điều 163, 164 và 166 Bộ luật Dân sự năm 2015;

khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Tuyết M về việc yêu cầu ông Văn Hòa C trả lại phần đất diện tích 1.550,3m2 (theo kết quả đo đạc thực tế) tại thửa đất số 56, tờ bản đồ số 20 (thuộc một phần trong thửa đất cũ số 84, tờ bản đồ cũ số 04), tọa lạc ấp M, xã V, huyện V Châu (nay là thị xã V Châu), tỉnh Sóc Trăng.

2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Tuyết M về việc yêu cầu ông Trần Văn M trả lại phần đất diện tích 358.9m2 (theo kết quả đo đạc thực tế) tại thửa đất số 49, tờ bản đồ số 98 (thuộc một phần trong thửa đất cũ số 84, tờ bản đồ cũ số 04), tọa lạc ấp M, xã V, huyện V Châu (nay là thị xã V Châu), tỉnh Sóc Trăng.

3/ Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Tuyết M về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C658049 (số vào sổ cấp giấy 0006) do Ủy ban nhân dân huyện V Châu (nay là thị xã V Châu) cấp cho hộ ông Văn Hòa C vào ngày 22/10/1996 đối với phần đất tại thửa đất cũ số 84, tờ bản đồ cũ số 04 (nay là thửa đất số 56, tờ bản đồ số 20 và thửa đất số 49, tờ bản đồ số 98), tọa lạc ấp M, xã V, huyện V Châu (nay là thị xã V Châu), tỉnh Sóc Trăng.

4/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Tuyết M về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (giấy tay) vào năm 2015 giữa bà Văn Thị Ph với ông Trần Văn M là vô hiệu.

- Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm đã xét xử không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Bà Trần Thị Tuyết M không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm (vì bà M thuộc diện được miễn án phí).

Bản án này là phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26/4/2023. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 234/2023/DS-PT

Số hiệu:234/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:26/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về