Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 15/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 15/2022/DS-ST NGÀY 06/06/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 06 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 156/2020/TLST-DS ngày 09 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp về quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST- DS ngày 11 tháng 5 năm 2022 và thông báo hoãn phiên tòa số: 19/TB-TA ngày 01 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lâm Quang T , sinh năm: 1983; địa chỉ: Số 1002/23 thôn 3, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lâm Quang Nh, sinh năm: 1952; địa chỉ: Số 1002/23 thôn 3, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

Theo văn bản ủy quyền ngày 23/11/2020. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn L, sinh năm: 1954; địa chỉ: Số 08 đường Lê Thị Riêng, thôn 4, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm:

1961; địa chỉ: Số 08 đường Lê Thị Riêng, thôn 4, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

4. Người làm chứng: Ông Vũ Văn T, sinh năm: 1962; bà Trịnh Thị Kim A, sinh năm: 1962; địa chỉ: Số 10 đường Lê Thị Riêng, thôn 4, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Ông Toàn có mặt, bà Anh vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt.

5. Người tham gia tố tụng khác:

- Ông Nghiêm Sỹ Tr, Là cán bộ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt.

- Ông Nguyễn Đỗ H, Là đại diện Công ty TNHH A. Vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện của anh Lâm Quang T và các lời khai tiếp theo trong quá trình tố tụng ông Lâm Quang Nh là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Nguồn gốc thửa đất 375, tờ bản đồ H.181.IB là do anh Lâm Quang T nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Quốc L, bà Võ Thị X vào ngày 05/01/2009. Khi chuyển nhượng ông L, bà X đã được UBND thị xã B cấp giấy chứng nhận QSD đất số G 964936 ngày 07/9/2004. Việc chuyển nhượng đất đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật nên ngày 26/02/2009 Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B đã điều chuyển tên người sử dụng đất từ hộ ông (bà) Nguyễn Quốc Lân sang cho anh Lâm Quang T . Sau khi nhận chuyển nhượng đất từ ông L, bà Xthì anh T cho vợ chồng ông Lâm Quang Nh mượn để trồng lá Dong và năm 2013 vợ chồng ông Nh lại cho bà Tùng là chủ sử dụng đất liền kề mượn để trồng cây chè tiên. Đến năm 2013 ông Llà chủ sử dụng thửa đất liền kề đã múc thửa đất của ông Lvà đã múc lấn sang thửa đất của anh T. Khi phát hiện ông Llấn đất thì anh T đã ủy quyền cho ông Nh làm đơn khiếu nại gửi UBND xã Lnhưng họ bảo để giải quyết tranh chấp đất giữa hộ ông Tvới ông Lxong mới giải quyết đơn của anh T, sau đó không thấy Ủy ban giải quyết. Vì vậy, đến năm 2020 ông Nh làm đơn lại khiếu nại và ngày 17/9/2020 UBND xã Lđã tiến hành hòa giải nhưng không thành nên anh T đã khởi kiện đến Tòa án. Anh T thống nhất với kết quả đo đạc diện tích đất của Công ty TNHH A và kết quả định giá của Hội đồng định giá do Tòa án thành lập, không thống nhất với kết quả đo đạc đất tranh chấp của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B. Giấy chứng nhận QSD đất số G964936 đối với thửa đất 375 này thì hiện nay anh T đang quản lý chứ không thế chấp, cầm cố cho bất cứ ai.

Trong đơn khởi kiện anh T yêu cầu ông Trần Văn L phải trả diện tích đất khoảng 14m2 nhưng nay anh T yêu cầu ông Trần Văn L, bà Nguyễn Thị H phải trả cho anh diện tích đất 03m2 thuc một phần thửa 375 tờ bản đồ H.181.IB xã Lnhư bản vẽ chỉnh lý bổ sung họa đồ hiện trang thửa đất do Công ty TNHH A cung cấp, ngoài ra anh T không có yêu cầu nào khác.

Theo bản tự khai đề ngày 26/11/2020 của ông và lời khai tiếp theo, bị đơn ông Trần Văn L thể hiện ý kiến: Năm 1987 vợ chồng ông mua thửa đất 76 này của ông Sơn, khi mua đất thì ông Sơn đã có giấy tờ xác nhận của UBND xã Lrồi. Vợ chồng ông sử dụng ổn định đến ngày 25/7/1998 UBND thị xã B (nay là thành phố B) đã cấp giấy chứng nhận QSD đất số M 745473 cho ông. Thửa đất 76 này có ranh phía Tây là đường tương đối thẳng chỉ có đoạn giáp nhà bà Toàn hơi gấp khúc, còn từ phần đất qua nhà ông Toàn đến đất nhà ông T(trong đó có cả phần đất ông Nh, anh T) là đường thẳng. Trước đây thửa đất 76 dốc thoai thoải nên năm 2013 ông có thuê múc đất để cải tạo mặt bằng, việc múc đất thì chỉ múc đúng ranh giới thửa đất 76 của ông chứ không lấn sang đất của ai khác. Thời điểm múc đất này thì ông Nh có đến yêu cầu vợ chồng ông dừng việc múc đất, sau đó ông Tlà chủ sử dụng đất liền kề cho rằng ông múc lấn đất của ông Tnên đã khiếu nại đến UBND xã L. Quá trình UBND xã Lgiải quyết khiếu nại của ông Tđối với ông thì đều có ông Nh tham gia. Kết quả giải quyết của UBND xã L là ông không lấn đất của ông Tmà ông Tphải chỉnh lại hàng rào của ông lùi lại nửa mét cho đúng với ranh giới đất. Sau đó ông Tcó sửa lại hàng rào nhưng chưa thực sự đúng với ranh giới đất nhưng vợ chồng ông cũng bỏ qua. Đến ngày 14/9/2020 vợ chồng ông nhận được giấy mời của UBND xã Lmời lên giải quyết đơn kiến nghị của ông Nh nhưng sau đó giải quyết không thành. Sau này ông nhận được thông báo thụ lý vụ án tranh chấp QSD đất giữa anh T với ông của Tòa án nhân dân thành phố B và ông đã đến Tòa án làm việc, giao nộp các tài liệu. Theo cảm nghĩ của ông thì đường R hiện nay đã mở rộng, thảm nhựa nên các hộ dân có đất giáp mặt đường (trong đó có hộ ông Nh) đều bị đường lấy một phần nên chiều sâu của các lô đất giáp mặt tiền đường hiện nay đều thiếu so với sổ đỏ được cấp. Ông thống nhất với kết quả đo đạc diện tích đất của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B và kết quả định giá của Hội đồng định giá do Tòa án thành lập, không thống nhất với kết quả đo đạc đất tranh chấp của Công ty TNHH A. Toàn bộ diện tích đất mà anh T đang tranh chấp là do vợ chồng ông đang trực tiếp quản lý, sử dụng.

Nay ý kiến của ông là không đồng ý trả lại đất như yêu cầu khởi kiện của anh Lâm Quang T vì vợ chồng ông không lấn đất của anh T, ngoài ra ông không có yêu cầu nào khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H trình bày: Tôi thống nhất hoàn toàn với lời trình bày cũng như ý kiến của bị đơn ông Trần Văn L, ngoài ra không bổ sung gì thêm và cũng không có yêu cầu nào khác.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Ti phiên tòa, các bên đương sự vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu của mình.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào Điều 164, 166, 168 Bộ luật Dân sự năm 2015 không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lâm Quang T về việc yêu cầu bị đơn ông Trần Văn L và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H phải trả diện tích đất 03m2 thuc một phần thửa 375 tờ bản đồ H.181.IB xã L.

Về chi phí tố tụng: Buộc anh Lâm Quang T phải chịu toàn bộ tiền chi phí tố tụng là 8.886.500đ.

Về án phí: Buộc anh Lâm Quang T phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Các đương sự khác không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn anh Lâm Quang T yêu cầu bị đơn ông Trần Văn L phải trả diện tích đất 03m2 thuộc một phần thửa 375 tờ bản đồ H.181.IB xã L, thành phố B. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định đây là “Tranh chấp về quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 9 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Diện tích đất mà các bên đương sự tranh chấp với nhau tọa lạc tại đường Lê Thị Riêng, thôn 4, xã L, thành phố B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo quy định tại khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Nguồn gốc diện tích đất 236m2 (trong đó có 100m2 đất ở và 136m2 đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa 375, bản đồ H.181.IB xã L, thành phố B của anh Lâm Quang T là do anh nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Quốc L, bà Võ Thị X vào ngày 05/01/2009. Khi chuyển nhượng đất thì ông L, bà Xđã được UBND thị xã B cấp giấy chứng nhận QSD đất số G 964936 ngày 07/9/2004. Việc chuyển nhượng đất được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật nên ngày 26/02/2009 Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B đã điều chuyển tên người sử dụng đất từ hộ ông (bà) Nguyễn Quốc L sang cho anh Lâm Quang T .

Ngun gốc thửa đất 76 bản đồ H.181.IB xã L, thành phố B này là vợ chồng ông Trần Văn L, bà Nguyễn Thị H mua của ông Sơn (không nhớ rõ họ) vào năm 1987, khi mua đất thì ông S đã có giấy xác nhận của UBND xã L. Vợ chồng ông Lý, bà Hoa sử dụng ổn định đến ngày 25/7/1998 thì UBND thị xã B (nay là thành phố B) cấp giấy chứng nhận QSD đất số M 745473 cho ông bà với diện tích 2.066m2 (trong đó có 300m2 đt ở và 1.766m2 đt trồng cây lâu năm).

Như vậy, anh Lâm Quang T có đầy đủ các quyền của người sử dụng đất đối với thửa đất 375, bản đồ H.181.IB xã L; còn ông Trần Văn L, bà Nguyễn Thị H có đầy đủ các quyền của người sử dụng đất đối với thửa đất 76, bản đồ H.181.IB xã L, thành phố B.

[2.2] Quá trình giải quyết vụ án, theo yêu cầu của ông Lâm Quang Nh (là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn anh Lâm Quang T ) nên Tòa án đã ký hợp đồng với Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B để đo đạc toàn bộ thửa đất 76, 375 để diện tích đất mà các bên đang tranh chấp với nhau. Ngày 05/01/2021 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B đã đo đạc theo sự chỉ ranh của các đương sự và sự chứng kiến của Tòa án, đến ngày 24/5/2021 Chi nhánh Văn phòng đã cung cấp kết quả cho Tòa án thể hiện bị đơn ông Lkhông lấn đất của nguyên đơn anh T cũng như không lấn phần đất nào của ông Nh (là nguyên đơn trong vụ án khác). Không đồng ý với kết quả đo đạc của Chi nhánh Văn phòng nên nguyên đơn ông Nh đã yêu cầu Công ty TNHH A đo đạc lại. Ngày 22/6/2021 Công ty đã đo đạc toàn bộ thửa đất 76, 375 cũng như diện tích đất mà các bên đang tranh chấp với nhau dưới sự chỉ ranh của các bên đương sự và sự chứng kiến của Tòa án; đến ngày 23/8/2021 Công ty đã cung cấp kết quả cho Tòa án thể hiện bị đơn ông L đang sử dụng trong đó có 1,9m2 thuc một phần thửa 375 của nguyên đơn anh T.

Như vậy, hiện nay đang có 02 kết quả đo đạc diện tích đất tranh chấp của hai đơn vị đo khác nhau nhưng số liệu, kích thước của hai kết quả đo đạc này lại khác nhau.

[2.2.1] Đối với kết quả đo đạc diện tích đất tranh chấp của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B thì Hội đồng xét xử thấy rằng: Ngày 05/01/2021 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B đã đo đạc theo sự chỉ ranh của các đương sự và sự chứng kiến của Tòa án. Ngoài việc đo đạc thửa 76, 375 cũng như diện tích đất mà anh T đang tranh chấp với ông L trong vụ án này thì Chi nhánh Văn phòng cũng đã đo đạc thửa đất 374 của ông Nh và phần đất ông Nh đang tranh chấp với ông L(trong vụ án khác có liên quan). Mặc dù Chi nhánh Văn phòng đo đạc thửa đất 76, 374, 375 trong 02 vụ án riêng biệt nhưng các đương sự cùng chỉ ranh một lượt và đo đạc một lần, chứ không phải đo đạc xong vụ án của anh T tranh chấp với ông L mới đi chỉ mốc giới lại để đo vụ án ông Nh tranh chấp với ông Lý. Đến ngày 24/5/2021 Chi nhánh Văn phòng đã cung cấp kết quả cho Tòa án, kết quả này sử dụng chung cho cả hai vụ án. Kết quả đo đạc thể hiện anh Lâm Quang T đang sử dụng diện tích đất thực tế là 210m2 thuộc thửa 375, thiếu so với sổ đỏ được cấp là 26m2; còn ông Trần Văn L, bà Nguyễn Thị H đang sử dụng diện tích đất thực tế là 1.998m2 thuc thửa 76, thiếu 168m2 so với sổ đỏ được cấp. Ngoài ra ông Lâm Quang Nh đang sử dụng diện tích thực tế là 245,5m2 thuc thửa 374, thiếu 31m2 so với sổ đỏ được cấp.

Phần diện tích đất tranh chấp giữa anh T, ông Nh với ông Llà 25,8m2 thuộc thửa 76 của ông L, bà H chứ không phải thuộc thửa 375 của anh T hay thuộc thửa 374 của ông Nh.

Ti đơn xin vắng mặt của ông Nghiêm Sỹ Tr (bút lục 126) là người được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B cử trực tiếp đo đạc diện tích đất tranh chấp giữa các bên đã trình bày: “Ngày 05/01/2021, tôi đã đo đạc các thửa đất 374, 375 và 76 tờ bản đồ 31 (H.181.I.B) xã Ldưới sự chứng kiến của Tòa án và sự chỉ ranh đất của các bên đương sự là ông Lâm Quang Nh (ông Nh củng đồng thời đại diện cho anh Lâm Quang T ) và ông Trần Văn L. Tôi đã đo các thửa đất nêu trên, cũng như phần đất tranh chấp giữa các bên đúng với sự chỉ ranh của ông Nh, ông Lý. Từ kết quả đo đạc này lồng ghép với tờ bản đồ địa chính số 31 xã Lthì đến ngày 11/5/2021 tôi đã xuất ra bản trích đo hiện trạng thửa đất và đến ngày 12/5/2021 thì lãnh đạo Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B đã thẩm định, ký xác nhận vào họa đồ sau đó cung cấp cho Tòa án. Tôi khẳng định bản trích đo hiện trạng thửa đất mà lãnh đạo Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B đã thẩm định, ký xác nhận ngày 12/5/2021 là đúng với sự chỉ ranh của ông Nh, ông Lvà được lồng ghép với tờ bản đồ địa chính số 31 (H.181.I.B) xã L”.

[2.2.2] Đối với kết quả đo đạc diện tích đất tranh chấp của Công ty TNHH A thì Hội đồng xét xử thấy rằng: Ngày 22/6/2021 Công ty đã đo đạc toàn bộ thửa đất 76, 374, 375 cũng như diện tích đất mà ông Nh, anh T đang tranh chấp với ông L theo sự chỉ mốc giới đất của các bên đương sự. Mặc dù đây là 02 vụ án riêng biệt, Tòa án ký đã ký 02 hợp đồng đo đạc riêng nhưng Công ty đã đo đạc trong một lần, đương sự cũng đi chỉ ranh đất một lần, chứ không phải đo đạc xong vụ án của ông Nh tranh chấp với ông L thì đương sự mới đi chỉ mốc giới lại để đo vụ án anh T tranh chấp với ông L. Tuy chỉ đo đạc trong một lần nhưng ngày 23/8/2021 Công ty đã cung cấp kết quả cho Tòa án với 02 họa đồ riêng biệt (mỗi vụ án một họa đồ) nhưng trong 02 họa đồ này có nhiều điểm mâu thuẫn, kích thước các cạnh của thửa đất không thống nhất.

Ti họa đồ đo đạc vụ án tranh chấp giữa anh T với ông L thể hiện anh T đang sử dụng diện tích 226,7m2 thuc thửa 375, thiếu so với sổ đỏ được cấp là 9,3m2, còn ông L đang sử dụng diện tích đất thực tế là 1.896,3m2 thuc thửa 76, thiếu 169,7m2 so với sổ đỏ được cấp. Diện tích đất tranh chấp là 10,1m2, trong đó có 1.9m2 thuộc thửa 375 của anh T và 8.2m2 thuộc thửa 76 của ông Lý. Kích thước thửa đất 76 của ông L cụ thể là: Cạnh phía Đông (giáp đường đất) có tổng chiều dài 72,5m; cạnh phía Bắc (giáp đất bà T) có tổng chiều dài 27,8m; cạnh phía Tây (giáp thửa 374, 375) có tổng chiều dài 55,6m và cạnh phía Nam (giáp đường R) có tổng chiều dài 38,8m. Ngoài ra, chiều dài cạnh đất giữa thửa 374 của ông Nh với thửa 375 của anh T là 27,8m.

Trong khi, tại họa đồ đo đạc vụ án tranh chấp giữa ông Nh với ông L thể hiện: Ông Nh đang sử dụng thực tế 264,1m2 thuc thửa 374, thiếu 11,9m2 so với sổ đỏ được cấp; còn ông L đang sử dụng diện tích đất thực tế là 1.896,3m2 thuộc thửa 76, thiếu 169,7m2 so với sổ đỏ được cấp. Diện tích đất tranh chấp mà nguyên đơn ông Nh yêu cầu đo đạc là 6,3m2, trong đó có 5,3m2 thuc thửa 374 của ông Nh và 1,0m2 thuc thửa 76 của ông Lý. Kích thước thửa đất 76 của ông Lcụ thể là: Cạnh phía Đông (giáp đường đất) có tổng chiều dài 72,7m; cạnh phía Bắc (giáp đất bà Tùng) có tổng chiều dài 28,4m; cạnh phía Tây (giáp thửa 374, 375) có tổng chiều dài 55,6m và cạnh phía Nam (giáp đường R) là 38,2m. Ngoài ra, chiều dài cạnh đất giữa thửa 374 của ông Nh và thửa đất 375 của anh T là 31,5m.

Ti công văn số: 52/CV-AT ngày 19/4/2022 của Công ty TNHH A (bút lục 103) về việc giải thích kết quả đo đạc thì Công ty đã trình bày: “ Sau quá trình đo đạc thực tế vào ngày 22/6/2021, Công ty đã xuất bản vẽ trích đo hiện trạng các thửa đất nêu trên cho Tòa án. Tuy nhiên, ngày 21/7/2021 Công ty xuất 02 bản vẽ chung một vụ án, chung đương sự chỉ ranh nhưng 02 bản vẽ có kích thước của các thửa đất lại khác nhau...Qua đối chiếu, xem xét nay chúng tôi có sự giải thích như sau:

Do chuyển đổi tệp tin từ máy tính này sang máy tính khác nên đã cài đặt thông số của mỗi máy tính khác nhau, vì thế kích thước các cạnh của các thửa đất khác nhau. Người biên tập đất của ông Nh làm tròn tỷ lệ 0.0, còn người biên tập đất của ông T làm tròn đến tỷ lệ 0.75 nên thông số sẽ thay đổi.

Mc dù kích thước thay đổi do thiết lập sai thông số làm tròn nhưng diện tích thửa đất không thay đổi Bên công ty chúng tôi đã bổ sung phần kích thước giới cận của phần đất thực tế các bên lấn chiếm theo yêu cầu của Tòa án”.

Văn bản giải thích nêu trên của Công ty A là không thỏa đáng, bởi lẽ nếu do 02 người biên tập của Công ty sử dụng thông số làm tròn khác nhau thì số liệu của 02 họa đồ kích thước tất cả các cạnh của các thửa đất đều phải khác nhau nhưng thực tế trong 02 họa đồ của 02 vụ án này thì có cạnh kích thước giống nhau, có cạnh kích thước khác nhau. Chiều dài cạnh đất giữa thửa 374 của ông Nh với thửa 375 của anh T trong họa đồ của vụ án ông Nh tranh chấp với ông Llà 31,5m; trong khi tại họa đồ vụ án tranh chấp giữa anh T với ông Lchỉ là 27,8m, chênh lệch độ dài 3,7m. Đây là sự chênh lệch rất lớn, vượt quá thông số làm tròn cho phép.

Ngoài ra, tại 02 họa đồ hiện trạng sử dụng đất kèm theo văn bản giải thích bản vẽ mà ngày 19/4/2022 Công ty cung cấp cho Tòa án kèm theo Công văn số:

52/CV-AT đã tự điều chỉnh diện tích đất mà Công ty cho rằng bị đơn ông Lđang sử dụng của nguyên đơn anh T và phần đất này diện tích không thống nhất, trong phần chi tiết là 2,8m2 thuc một phần thửa 375, trong khi tại phần chú thích của họa đồ này là 3,0m2, đều tăng so với họa đồ trước khi giải thích là 1,9m2. Còn diện tích đất mà bị đơn ông L đang sử dụng của nguyên đơn ông Nh là 5,5m2 thuc một phần thửa 374, tăng 0,2m2 so với kết quả ban đầu trước khi Công ty giải thích bản vẽ.

[2.2.3] Mặt khác, cả kết quả đo đạc của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B và Công ty TNHH A đều thể hiện các đương sự thực tế đang sử dụng thiếu đất so với diện tích ghi trong giấy chứng nhận QSD đất đã được Nhà nước cấp. Trong đó, bị đơn ông L sử dụng thiếu 168m2 so với sổ đỏ được cấp (kết quả đo đạc của Chi nhánh văn phòng) và thiếu 169,7m2 so với sổ đỏ được cấp (Kết quả đo của Công ty An Thịnh).

[2.2.4] Tại biên bản ghi lời khai người làm chứng ngày 13/12/2021, ông Vũ Văn T, bà Trịnh Thị Kim A trình bày: “Vợ chồng chúng tôi chuyển về sống tại số 10 Lê Thị Riêng, thôn 4, xã L, thành phố B từ năm 2009 cho đến nay....năm 2009 vợ chồng tôi và chủ đất cũ và ông Trần Văn L đã xác định mốc giới đất giáp ranh giữa hai bên. Khi đó chúng tôi thống nhất thửa đất 76 của ông Lgiáp phần đất của chúng tôi sẽ là một đường thẳng kéo từ đầu đến cuối đất...và phân ranh giữa đất của chúng tôi với đất của ông L là hàng chè, năm 2013 ông Lcó cải tạo lại đất, múc đất cho bằng phẳng như hiện nay. Tuy nhiên tôi thấy ông Lkhông có xê dịch ranh giới đất gì. Theo chúng tôi nghĩ hiện nay chiều dài lô đất của ông Nh, anh T bị thiếu so với sổ đỏ được cấp là do Nhà nước làm đường mở rộng hơn so với đường cũ và có làm mương thoát nước nên các hộ dân có đất giáp đường Rcó thể phải lùi vào so với sổ đỏ được cấp”.

[2.3] Từ những phân tích ở trên, căn cứ vào các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy kết quả đo đạc của Công ty TNHH A là không chính xác, có nhiều mâu thuẫn nên không thể sử dụng kết quả này làm căn cứ giải quyết vụ án. Còn kết quả đo đạc của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B không có điểm mâu thuẫn nên cần sử dụng kết quả đo đạc của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B để làm căn cứ giải quyết vụ án. Trong khi kết quả đo đạc của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thể hiện bị đơn ông Lkhông lấn chiếm phần đất nào của nguyên đơn anh T. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lâm Quang T .

[3] Ngày 19/11/2021, Hội đồng định giá tài sản do Tòa án thành lập đã tiến hành định giá diện tích đất tranh chấp dưới sự chứng kiến của các đương sự. Hội đồng định giá đã xác định giá đất thị trường tại thời điểm định giá là 1.000.000đ/m2, các đương sự cũng đề nghị lấy kết quả định giá này làm căn cứ giải quyết vụ án.

[4] Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc lần 1 (do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B thực hiện) là 2.005.500đ; chi phí đo đạc lần 2 (do Công ty TNHH A thực hiện) là 4.781.000đ và chi phí định giá là 2.100.000đ. Tổng cộng là 8.886.500đ (Tám triệu tám trăm tám mươi sáu nghìn năm trăm đồng), nguyên đơn anh Lâm Quang T đã tạm nộp. Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên cần buộc anh T phải chịu toàn bộ các chi phí tố tụng này.

[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên nguyên đơn anh Lâm Quang T phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Các đương sự khác không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[6] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đối với vụ án là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 6, khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, khoản 1 Điều 39, các Điều 146, 147, 157, 165, 208, 210, 211, 220, 262 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 164, 166, 168 của Bộ luật Dân sự 2015; các Điều 166, 203 của Luật đất đai năm 2013;

- Căn cứ các Điều 18, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

X:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lâm Quang T đối với bị đơn ông Trần Văn L về việc buộc ông Trần Văn L, bà Nguyễn Thị H phải trả diện tích đất 03m2 thuộc một phần thửa 375 tờ bản đồ H.181.IB xã L, thành phố B.

2. Về chi phí tố tụng: Buộc nguyên đơn anh Lâm Quang T phải chịu 8.886.500đ (Tám triệu tám trăm tám mươi sáu nghìn năm trăm đồng) tiền chi phí tố tụng. (Anh T đã nộp đủ).

3. Về án phí: Buộc nguyên đơn anh Lâm Quang T phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 700.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp, hoàn trả cho anh T 400.000đ tiền tạm ứng án phí còn thừa theo biên lai số 0018721 ngày 09/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Các đương sự khác không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 15/2022/DS-ST

Số hiệu:15/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về