TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 09/2024/DS-PT NGÀY 09/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 09 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 81/2023/TLPT-DS ngày 03 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 74/2023/DS-ST ngày 24 tháng 07 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 207/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị C; vắng mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị L; có mặt.
Cùng cư trú tại: Thôn P, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thị L1; có mặt.
2. Bà Nguyễn Thị Thu H; có mặt.
3. Bà Lê Thị V; vắng mặt.
Cùng cư trú tại: Thôn P, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định.
4. Bà Lê Thị T; vắng mặt.
5. Bà Lê Thị y; vắng mặt.
Cùng cư trú tại: Thôn H, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định.
6. Bà Lê Thị D; cư trú tại: Thôn Đ, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; vắng
7. Bà Lê Thị C1; cư trú tại: Thôn H, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; vắng
8. Bà Lê Thị Đ; cư trú tại: Thôn T, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; vắng
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị L là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Ngu yễn Thị Cô ng trì nh b :
Bà Nguyễn Thị L là em ruột của bà. Trong thời gian còn sống, cha, mẹ bà có một thửa đất tại thôn P, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định xây dựng nhà tranh, vách đất ở từ trước năm 1975, vợ chồng bà ở chung với cha mẹ, bà L cũng ở đó. Năm 1975 cha bà chết, năm 1980 mẹ bà chết. Năm 1982, vợ chồng bà phá bỏ nhà tranh, xây dựng lại nhà như bây giờ. Năm 1993, nhà nước cân đối giao quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà với diện tích 1/2 thửa đất của cha mẹ bà, thửa đất của bà có số hiệu 477, tờ bản đồ số 2, diện tích 1210m2, còn 1/2 diện tích thì giao cho bà L sử dụng. Năm 1995, bà L phá bỏ nhà dưới, xây dựng nhà liền kề với nhà dưới của bà để ở, năm 2018 chồng bà chết. Năm 2019, mẹ con bà L xây dựng nhà trên phần đất được cấp cho bà L, phần diện tích nhà cũ thì bà L không sử dụng. Năm 2020, do nhà cũ bị hư hỏng nên bà dự tính phá bỏ để xây dựng lại, bà yêu cầu bà L tháo gỡ phần diện tích nhà của bà L, nhưng bà L không chấp nhận. Nay bà yêu cầu toà án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị L phải tháo gỡ nhà cũ, trả lại diện tích đất cho bà xây dựng nhà.
Bị đơn bà Ngu yễn Thị L trình bày:
Bà là em ruột của bà Nguyễn Thị C, cha mẹ bà có một ngôi nhà như bà Công trình b, bà và vợ chồng bà C ở cùng với cha mẹ. Cha bà chết năm 1975, mẹ bà chết năm 1980. Năm 1982 bà Công phá bỏ nhà trên để xây dựng lại, đến năm 1993 nhà nước cân đối giao quyền sử dụng 1/2 diện tích thửa đất cho bà C, năm 1995 thì bà cũng phá bỏ nhà dưới để xây dựng lại nhà để bà ở. Năm 1996 bà được nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng 1/2 diện tích thửa đất còn lại, thửa đất của bà có số hiệu 1321, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.210m2. Năm 2019 con bà xây dựng nhà trên phần đất được giao quyền, bà ở đó nhưng cũng thường xuyên qua lại diện tích nhà cũ. Năm 2020 bà C yêu cầu bà tháo gỡ nhà cũ để bà C xây dựng nhà, nhưng bà không chấp nhận. Nay bà không chấp nhận yêu cầu của bà C.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:
Các bà Lê Thị L1, Lê Thị T, Lê Thị D, Lê Thị C1, Lê Thị Y, Lê Thị Đ, Lê Thị V trình bày: Các bà là con của bà C, các bà thống nhất như trình bày và yêu cầu của bà C. Phần diện tích nhà của bà L xây dựng là trên đất của bà C, hiện nay bà L có nhà ở với con trên thửa đất của bà L, nên bà L phải tháo gỡ nhà cũ để trả lại diện tích đất cho bà C xây dựng nhà, vì nhà cũ đã hư hỏng.
Bà Nguyễn Thị Thu H trình bày: Bà thống nhất như trình bày và yêu cầu của bà L (là mẹ của bà), vì nhà của mẹ bà xây dựng trên đất của ông bà cho mẹ bà sử dụng.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 74/2021/DS-ST ngày 24 tháng 07 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn.
Buộc bà Nguyễn Thị L phải tháo gỡ toàn bộ diện tích công trình xây dựng trên thửa đất số hiệu 477, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.210m2 (300m2 đất ở, 910m2 đất vườn) tại thôn P, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện H cấp ngày 25/9/1993 cho hộ ông Lê Văn B và bà Nguyễn Thị C (phần công trình tháo gỡ có sơ đồ kèm theo).
Bà Nguyễn Thị C phải hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị L giá trị công trình nhà và chuồng heo tổng cộng là 3.508.925 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 03 tháng 08 năm 2023 bà Nguyễn Thị L kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại Bản án dân sự sơ thẩm số: 74/2023/DS-ST ngày 24 tháng 07 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về Tố tụng: Trong giai đoạn phúc thẩm, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị L, hủy bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị L, HĐXX thấy rằng: Cấp sơ thẩm buộc bà L phải tháo dỡ phần công trình xây dựng trên đất để trả lại đất cho bà Nguyễn Thị C là có cơ sở, bởi lẽ: Thứ nhất, nguồn gốc phần đất đang tranh chấp là của cha mẹ bà C, bà L để lại. Tại sổ đăng ký ruộng đất vào sổ tháng 01 năm 1996 thể hiện: Năm 1993, ông Lê Văn B (chồng bà C) đại diện hộ gia đình đăng ký, kê khai xin cấp quyền sử dụng 06 thửa đất, trong đó có thửa đất số 477, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.210m2 (trong đó có 300m2 đất ở và 910m2 đất vườn) theo Quyết định số: 274/QĐ-UB ngày 24/6/1993 của UBNDhuyệnH và hộ gia đình ông B đã được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: 00673/QSDĐ ngày 25/9/1993. Hộ gia đình bà Nguyễn Thị L do bà L đại diện đăng ký, kê khai xin cấp quyền sử dụng 03 thửa đất, trong đó có thửa đất số 1321, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.210m2 (trong đó có 300m2 đất ở và 910m2 đất vườn) và hộ gia đình bà L đã được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CH00293 ngày 05/9/2011 (BL: 47A, 47B). Như vậy, thửa đất của cha mẹ bà C, bà L để lại đã được chia thành 02 thửa, có diện tích bằng nhau và Nhà nước đã giao cho hộ bà C, bà L mỗi hộ được quyền sử dụng một thửa (BL: 04). Thứ hai, tại Biên bản lấy lời khai ngày 10/7/2023, bà L đã khai: “…Năm 1993, Nhà nước có chủ trương giao QSDĐ cho hộ cá nhân, tôi có đến đội trưởng kê khai diện tích đất, nhưng tôi không giao nộp giấy phân thơ, vì lúc đó ai cũng kê khai miệng chứ không có giấy tờ gì, nhưng vợ chồng bà C tự ý kê khai để được cấp sổ đỏ ½ diện tích, còn tôi chưa được nhận sổ do sổ bị thất lạc…Tôi nghĩ sự việc cấp đất cho các bên đã xong nên gia đình tôi không có ý kiến gì về việc cấp sổ. Đối với phần nhà cũ thì tôi xây dụng năm 1995, sát với nhà của bà C, chị em sống chung với nhau…”. Như vậy, bà L đã mặc nhiên thừa nhận thửa đất số 477, tờ bản đồ số 8 là thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình bà C (BL: 04). Thứ ba, tại thời điểm bà L xây nhà (năm 1995), thì phần đất này của cho mẹ các bà đã được Nhà nước giao quyền cho hộ gia đình bà C nên bà L xây dựng nhà là xây trên đất thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình bà C, chứ không phải xây trên đất của cha mẹ các bà để lại. Hơn nữa, hiện nay mẹ con bà L đã xây dựng nhà mới trên phần đất được Nhà nước giao quyền sử dụng, ngôi nhà cũ hiện đã xuống cấp, hư hỏng nên bà C yêu cầu bà L phải tháo dỡ ngôi nhà cũ của bà L, để bà C Xây dựng nhà ở là có cơ sở.
[2] Từ phân tích nêu trên, xét thấy kháng cáo của bà Nguyễn Thị L là không có căn cứ nên không được HĐXX chấp nhận. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, thì bà NguyễnThịL được miễn.
[4] Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng tại cấp phúc thẩm là phù hợp với nhận định của HĐXX. Ý kiến về việc giải quyết vụ án là không phù hợp với nhận định của HĐXX.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 2 Luật người cao tuổi; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị L. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 74/2021/DS-ST ngày 24 tháng 07 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C.
1.1 Buộc bà Nguyễn Thị L phải tháo gỡ toàn bộ phần công trình xây dựng (nhà ở, chuồng heo…), do bà L xây dựng trên thửa đất của hộ gia đình bà Nguyễn Thị C có số hiệu 477, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.210m2 tọa lạc tại thôn P, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: 00673/QSDĐ ngày 25/9/1993, do UBNDhuyệnH cấp cho hộ ông Lê Văn B và bà Nguyễn Thị C (phần công trình tháo gỡ có sơ đồ kèm theo bản án sơ thẩm).
1.2 Buộc bà Nguyễn Thị C phải có nghĩa vụ hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị L 3.508.925 đồng giá trị phần công trình xây dựng bị tháo dỡ.
2. Về án phí, chi phí tố tụng khác:
2.1 Về án phí: Bà Nguyễn Thị C và bà Nguyễn Thị L được miễn.
2.2 Chi phí tố tụng khác: Bà Nguyễn Thị L phải hoàn trả lại cho bà NguyễnThịC 3.000.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
3. Quyền, nghĩa vụ thi hành án:
3.1 Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
3.2 Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 09/2024/DS-PT
Số hiệu: | 09/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về