Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 09/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BC GIANG

BẢN ÁN 09/2024/DS-PT NGÀY 15/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 15/01/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 199/2023/TLPT-DS ngày 12/10/2023, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do Bản án dân sự sơ thẩm số 46/2023/DS-ST ngày 15/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 185/2023/QĐ-PT ngày 26/10/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 270/2023/QĐ-PT ngày 06/12/2023 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 50/TB-TA ngày 21/12/2023 giữa:

Ngun đơn: ông Trần Văn T1, sinh năm 1968 (có mặt);

Địa chỉ: thôn S, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang

Bị đơn: ông Trần Văn T2, sinh năm 1942 (có mặt);

Địa chỉ: thôn S, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T2 - bà Nguyễn Thị H, trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh B (có mặt);

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Văn T3, sinh năm 1979 (có mặt);

2. Anh Trần Văn L, sinh năm 1982 (có mặt);

3. Bà Dương Thị T4, sinh năm 1971 (có mặt);

4. Anh Trần Văn T5, sinh năm 1991 (vắng mặt);

5. Chị Trần Thị T6, sinh năm 1989 (vắng mặt);

(Chị T6, anh T5 ủy quyền cho mẹ là bà Dương Thị T4) (có mặt) 6. Ông Lê Văn T7, sinh năm 1965 (vắng mặt);

7. Anh Lê Văn H1, sinh năm 1987 (xin vắng mặt);

8. Chị Lê Thị H2, sinh năm 1990 (có mặt);

Cùng địa chỉ: thôn S, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang.

9. Chị Lê Thị H3, sinh năm 1995 (vắng mặt);

Địa chỉ: thôn A, xã Đ, huyện H, tỉnh Bắc Giang.

10. UBND xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt);

11. UBND huyện H, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt);

12. Bà Trần Thị H4, sinh năm 1930 (vắng mặt);

Địa chỉ: thôn S, xã L, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang 13. Ông La Văn T8, sinh 1958 (xin vắng mặt);

14. Ông La Văn N, sinh năm 1965 (xin vắng mặt);

15. Bà La Thị B, sinh năm 1952 (xin vắng mặt);

Cùng địa chỉ: thôn S, xã L, huyện H, tinh Bắc Giang 16. Bà La Thị M, sinh năm 1945 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: thôn S, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang 17. Bà La Thị Đ, sinh năm 1963 (vắng mặt);

Địa Chỉ; Thôn V, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang.

18. Bà La Thị L1, sinh năm 1968 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Giang.

19. Bà Trần Thị D, sinh năm 1947 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: thôn S, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang 20. Bà Trần Thị N1, sinh năm 1962 (vắng mặt);

Địa chỉ: Làng H, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

21 Bà Trần Thị C, sinh năm 1958 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: thôn V, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang.

Người kháng cáo: bị đơn - ông Trần Văn T1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 46/2023/DS-ST ngày 15/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, thì nội dung vụ án như sau:

Nguyên đơn - Ông Trần Văn T1 trình bày: gia đình ông có thửa đất diện tích là 576m2 đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) nông nghiệp. Thửa đất này có nguồn gốc được nhà chia cho gia đình ông năm 1992 - 1993 khi thực hiện việc chia lại ruộng đất trên toàn quốc. Việc chia ruộng được thực hiện hai lần, lần 1 năm 1990, lần 2 năm 1992. Khi chia lần 1 ông ở chung với ông T2 nên ông T2 đi nhận ruộng cho cả ông. Thửa đất đang tranh chấp ông được mẹ ông nói lại là bố ông làm nhưng trên sổ sách giấy tờ thì là tên vợ chồng ông. Vợ chồng ông nộp thuế từ năm 1992 cho đến nay. Việc nộp thuế không ghi rõ là thửa nào, diện tích là bao nhiêu mà thu trên đầu sào, xứ đồng. Ông sử dụng thửa đất bên cạnh được ông T2 giao cho từ năm 1991 cho đến nay. Ông T2 là người đi làm GCNQSDĐ cho ông. Thửa đất ông đang làm là đổi cho ông D1 người cùng thôn, việc đổi ruộng là do ông T2 thực hiện từ khi ông còn bé chưa lấy vợ. Vì tình cảm trong gia đình là bố con nên ông có để cho bố ông là ông Trần Văn T2 làm thửa đất tranh chấp từ năm chia ruộng cho đến năm 2021 thì ông đòi về để cấy. Sau đó hai bố con mâu thuẫn nên bố ông lại đòi, ruộng đó bỏ không từ đó cho đến nay. Theo bản đồ địa chính chính quy mới thửa đất này là thửa đất số 821, tờ bản đồ số 7 thôn S, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang. Tại thời điểm chia ruộng gia đình ông có 4 người được chia gồm ông, bà D2, anh T5, chị T6 mỗi định suất được 1,9 sào. Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông T2 phải trả ông thửa đất số số 821, tờ bản đồ số 7 thôn S, xã L, huyện H 821, tờ bản đồ số 7 thôn S, xã L, huyện H.

Bà T4, chị T6, anh T5 ủy quyền cho bà T4 tham gia tố tụng và nhất trí với yêu cầu khởi kiện của ông T1, căn cứ đưa ra cũng giống như ông T1 đã nêu trong đơn khởi kiện và lời khai.

Bị đơn - ông Trần Văn T2 trình bày: nguồn gốc thửa đất anh T1 đang yêu cầu ông trả được nhà nước giao cho ông năm 1992. Tại thời điểm chia ruộng thì anh T1 đã ở riêng và được nhà nước chia ruộng riêng. Gia đình ông được chia 6 định suất ruộng, mỗi định suất là 1,9 sào. Khi chia ruộng do gia đình ông đang quản lý, sử dụng thừa so với định suất được chia nên phải trả cho anh T1. Phần thửa đất đang tranh chấp ông quản lý, sử dụng từ trước cho đến nay. Phần định suất của anh T1 thì là thửa bên cạnh, không phải thửa của ông. Việc đổi đất với ông D1 là từ năm 1983 - ông D1 đã chết năm 1984. Thửa đất hiện nay đang tranh chấp đã được cấp GCNQSDĐ cho ông năm 1999. Ông vẫn quản lý, sử dụng, cấy lúa và đóng thuế từ đó cho đến nay. Ông không có giấy tờ chia ruộng năm 1992 mà chỉ có thôn lưu. Thửa ruộng này do hợp tác xã trực tiếp giao cho ông năm 1992. Ruộng của ông T9 ở trên còn ruộng của ông ở dưới liền bờ nhau, chung bờ ruộng. Tại thời điểm chia ruộng gia đình ông được chia ruộng cho 6 định suất, mỗi định suất được 1,9 sào. Những người trong gia đình được chia ruộng gồm ông, vợ ông là bà Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1942 - chết năm 2002. Bà nội của ông là cụ Lưu Thị S, chết năm 1994, mẹ ông là Nguyễn Thị T10, sinh năm 1924 - chết năm 2013; con trai Trần Văn T3, sinh năm 1979 và Trần Văn L, sinh năm 1982.

Đại diện UBND xã L trình bày: thửa đất tranh chấp giữa ông T1 và ông T2 là đất nông nghiệp được nhà nước giao khi thực hiện việc chia ruộng những năm 1990 - 1992. Về tài liệu giao, chia lại ruộng đất năm 1990 - 1992, UBND xã không có nên không thể cung cấp cho Tòa án được. Hiện nay, tại UBND xã chỉ còn lưu sổ địa chính đối với các thửa đất đã cấp cho các hộ. Tại sổ địa chính cũng không xác định được ông T2, ông T1 đang quản lý thửa đất nào so với bản đồ địa chính, chính quy hiện nay vì các thửa đất trong sổ địa chính đều chỉ ghi là thửa đất số 0, tờ bản đồ số 0 có ghi xứ đồng nhưng không khớp về diện tích.

Theo bản đồ địa chính chính quy năm 2013, thửa đất đang tranh chấp là thửa đất số 821, tờ bản đồ số 7 thôn S, xã L, huyện H. Trên bản đồ địa chính thửa đất này mang tên ông Trần Văn T2. Theo tên xứ đồng thì thửa đất này thuộc xứ Đồng Nội, có diện tích là 360m2. Ông T1 không có thửa đất nào tại xứ Đ. Thực tế thì thửa đất tranh chấp được ông T2 quản lý, sử dụng từ trước đến nay, khi xảy ra tranh chấp thì các hộ không sử dụng nữa mà bỏ không. UBND xã L đề nghị Tòa án căn cứ GCNQSDĐ, tài liệu chứng cứ khác để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện UBND huyện H trình bày: liên quan đến việc chia đất nông nghiệp năm 1992 của thôn S, xã L, UBND huyện H không có tài liệu lưu trữ để cung cấp cho Tòa án. Đối với GCNQSDĐ và sổ địa chính của hộ ông T1, ông T2 đều ghi chung số thửa, số tờ bản đồ đối với diện tích đất nông nghiệp nên UBND huyện H không xác định được các thửa đất đã cấp cho hộ ông T2, ông T1 trên giấy GCNQSDĐ là thửa nào trên bản đồ địa chính chính quy hiện nay.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - anh L, anh TS, bà M, ông T7, anh H1, chị H2, chị H3, bà H4, ông T8, ông N, bà B, bà Đ, bà L1, bà D, bà N1, bà C cùng đều trình bày: liên quan đến việc tranh chấp đất giữa anh T1 và ông T2 đối với thửa đất nông nghiệp trên đề nghị tòa án căn cứ vào tài liệu giao ruộng năm 1992 để giải quyết thửa đất là của ai. Những người liên quan này không có yêu cầu chia thừa kế, không có yêu cầu gì đối với thửa đất này. Trường hợp thửa đất này của hộ ông T2 thì đề nghị Tòa án tiếp tục giao cho ông T2 quản lý sử dụng.

Với nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 46/2023/TCDS-ST ngày 15/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa đã căn cứ Điều 100 Luật đất đai. Xử: bác yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T1 về việc yêu cầu ông Trần Văn T2 trả thửa đất số 821, tờ bản đồ số 7 tại thôn S, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 18/5/2023, ông T1 kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T1 thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị HĐXX sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông;

Tại phiên tòa phúc thẩm ông T1 giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Ông T1 phát biểu ý kiến tranh luận: đề nghị HĐXX giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Bà Nguyễn Thị H bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông T2 ý kiến: ông T1 không có căn cứ nào chứng minh cho yêu cầu khởi kiện. Vì vậy đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của ông T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ông T2 nhất trí ý kiến của bà H, không bổ sung gì thêm.

Anh T3, anh L, chị H2 không có ý kiến tranh luận gì.

Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, Thẩm phán, HĐXX, Thư ký đã thực hiện đúng, đủ quy định của BLTTDS, một số đương sự đã không thực hiện đúng các quyền nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS. Sau khi xem xét yêu cầu kháng cáo của ông T1, phân tích nội dung, các tình tiết của vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS không chấp nhận kháng cáo của ông T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ông T1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1]. Về tố tụng: tại phiên tòa phúc thẩm vắng mặt lần thứ hai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo gồm: đại diện UBND huyện H, đại diện UBND xã L, bà M ông T7, anh H1, chị H3, bà H4, ông T8, ông N, bà B, bà Đ, bà L1, bà D, bà N1, bà C. HĐXX căn cứ khoản 2 và khoản 3 Điều 296 BLTTDS tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Xét nội dung vụ án, HĐXX thấy: nguồn gốc thửa đất tranh chấp do nhà nước giao thời điểm năm 1990 - 1992 khi thực hiện chủ trương giao đất nông nghiệp cho các hộ dân. Tại thời điểm chia ruộng, hộ ông T2, hộ ông T1 là hai hộ riêng được chia ruộng độc lập, không liên quan đến nhau.

Hộ ông T1 được chia 4 định suất ruộng, mỗi định suất được chia 1 sào 9 thước, tổng diện tích được chia là 6 sào 4 thước tương đương 2.256m2, trên GCNQSDĐ được cấp là 2.280m2 Hộ ông T2 được chia 6 định suất, mỗi định suất được chia 1 sào 9 thước, tổng diện tích được chia là 9 sào 6 thước, tương đương 3.330m2, trên GCNQSDĐ được cấp là: 3.408m2.

[3]. Xét yêu cầu khởi kiện của ông T1, thấy: ông T1 cho rằng việc chia ruộng được thực hiện hai lần. Lần 1 năm 1990, do ông T2 đi nhận, lần hai năm 1992 hộ ông được chia thêm định suất do ông mới sinh thêm người con thứ hai năm 1991. Các thửa còn lại ông không nhận từ thôn mà được ông T2 giao cho. Thửa ruộng đang tranh chấp với ông T2 được ông T2 canh tác, sử dụng từ năm 1992 đến khi xảy ra tranh chấp. Còn thửa phía trong (thửa số 822 hiện nay) gia đình ông quản lý, sử dụng từ năm 1992 cho đến nay. Theo GCNQSDĐ của hai hộ thì đều không ghi xứ đồng, các thửa đất đều có số thửa, tờ bản đồ như nhau.

Theo UBND xã L thì không thể xác định được thửa đất nào trong GCNQSDĐ là thửa đất bao nhiêu trên bản đồ địa chính chính quy hiện nay. Thửa đất đang tranh chấp có địa chỉ tại xứ Đ. Theo sổ địa chính lưu tại UBND xã L thì hộ ông T2 có một thửa đất tại xứ Đ, hộ ông T1 không có thửa đất nào tại xứ Đ.

Ông T1 cho rằng mẹ đẻ ông khi còn sống có nói là thửa đất đang tranh chấp ông T2 làm thực tế nhưng trong sổ sách là tên của vợ chồng ông, vợ chồng ông đóng thuế từ đó cho đến nay nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh.

Do vậy, Toà cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T1 về việc yêu cầu ông Trần Văn T2 trả thửa đất số 821, tờ bản đồ số 7 tại thôn S, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang là có căn cứ.

[4]. Xét kháng cáo của ông T1 HĐXX thấy, tại phiên tòa phúc thẩm ông T1 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của mình. Vì vậy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông T1.

[5]. Về án phí dân sự phúc thẩm: căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: ông T1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.

[6]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Xử: không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn T1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 46/2023/DSST ngày 15/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

2. Về án phí: ông Trần Văn T1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0002728 ngày 18/5/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 09/2024/DS-PT

Số hiệu:09/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về