Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 06/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BC GIANG

BẢN ÁN 06/2024/DS-PT NGÀY 12/01/2024 VỀ TRANH CHP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 12/01/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 238/2023/TLPT-DS ngày 24/10/2023, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2023/DS- ST ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 254/2023/QĐ-PT ngày 08/12/2023, Quyết định hoàn phiên tòa số 243/2023/QĐ-PT ngày 18/12/2023 giữa:

Nguyên đơn: bà Vũ Thị H, sinh năm 1970 (vắng mặt) Địa chỉ: thôn C, xà H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Bị đơn: ông Phan Văn Đ, sinh năm 1962 (có mặt); bà Trần Thị A, sinh năm 1965 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: thôn C, xà H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Phan Văn L, sinh năm 1990 (vắng mặt);

2. Anh Phan Văn H1, sinh năm 1992 (vắng mặt);

3. Chị Đặng Thị M, sinh năm 1994 (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của anh Phan Văn L, anh Phan Văn H1, chị Đặng Thị M: bà Vũ Thị H, sinh năm 1970 (vắng mặt) Địa chỉ: thôn C, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

4. Anh Phan Văn Y, sinh năm 1984 (vắng mặt)

5. Anh Phan Văn H2, sinh năm 1986 (vắng mặt)

6. Chị Dương Thị N, sinh năm 1984 (vắng mặt)

7. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1991 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: thôn C, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

8. Chị Phan Thị H3, sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: xóm T, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

9. Ủy ban nhân dân (UBND) xã H, huyện L do ông Đào Tiến D - Chủ tịch đại diện theo pháp luật (vắng mặt) Địa chỉ: xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

10. UBND huyện L, tỉnh Bắc Giang do ông Ngô Ngọc Đ1- Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện L đại diện theo ủy quyền (vắng mặt) Địa chỉ: tổ dân phố T, thị trấn V, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Người kháng cáo: bị đơn - ông Phan Văn Đ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2023/DS-ST ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, thì nội dung vụ án như sau:

Nguyên đơn - bà Vũ Thị H và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phan Văn L, anh Phan Văn H1, chị Đặng Thị M do bà Vũ Thị H đại diện theo ủy quyền thống nhất quan điểm trình bày: gia đình bà H có thửa đất số 609, tờ bản đồ số 25 diện tích 976m2 (trong đó có 360m2 đất ở, 616m2 đất vườn) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) ngày 05/3/1995 mang tên ông Phan Văn T1 (chết năm 2007). Nằm liền kề với thửa đất của gia đình bà H là thửa đất của hộ ông Phan Văn Đ là anh chồng.

Nguồn gốc đất của gia đình bà và gia đình ông Đ trước đây chung một thửa do bà nội chồng là cụ Vũ Thị L1 khai hoang, sử dụng từ lâu đời. Năm 1987, bà kết hôn với ông T1 và về làm dâu, vợ chồng bà ở chung cùng với cụ L1, mẹ chồng là bà Vũ Thị K và vợ chồng ông Đ, bà Trần Thị A.

Khoảng tháng 10/1988, gia đình tách thửa đất của cụ L1 ra làm ba phần (ba thửa) để chia cho ba hộ gia đình ở riêng, vợ chồng bà được quản lý, sử dụng thửa số 609, tờ bản đồ số 25 diện tích 976m2; vợ chồng ông Đ, bà A và bà K được quản lý, sử dụng diện tích 1.010m2 đất tại thửa số 610, tờ bản đồ 25 (trong đó 360m2 đất ở, 650m2 đất vườn) được cấp GCNQSDĐ ngày 05/3/1995 mang tên ông Phan Văn Đ; cụ L1 được quản lý, sử dụng phần đất có diện tích 560m2 tại thửa số 464, tờ bản đồ số 25 được cấp GCNQSDĐ ngày 05/3/1995 mang tên Vũ Thị L1.

Sau khi được chia đất vợ chồng bà ở riêng, khi đó trên đất có nhà ngang cũ của gia đình. Cụ L1 ở chung với vợ chồng bà nhưng không cùng hộ khẩu, phần diện tích đất cụ L1 được chia sử dụng làm vườn, còn vợ chồng ông Đ, bà A làm nhà mới và ra ở riêng trên phần diện tích đất được chia.

Khi chia đất, tách thửa để các hộ gia đình ra ở riêng thì ranh giới, hiện trạng các thửa đất chỉ thể hiện là rãnh nước sau nhà ngang và hàng cây chè do nhà ông Đ trồng mà không có vật cứng nào làm mốc giới. Đến năm 2004, vợ chồng bà xây tường bao làm ranh giới ngăn cách phần diện tích đất của gia đình bà với nhà ông Đ. Khi xây dựng không đo về, chỉ xây ước lượng, quá trình xây dựng hai gia đình không có ai phản đối, không có tranh chấp gì. Sau khi vợ chồng bà xây dựng tường bao thì nhà bà sử dụng phần diện tích đất tính từ tường bao trở về phía nhà bà, còn nhà ông Đ sử dụng phần diện tích đất từ tường bao trở về phía nhà ông Đ. Hai bên gia đình sử dụng ổn định theo tường bao ngăn cách hai thửa đất. Theo đo đạc ghép sơ đồ hiện trạng sử dụng đất ngày 15/3/2023, phần diện tích đất có hình :

là 19,4m2 + 67,5m2, hộ ông Đ sử dụng làm cổng đi vào đất.

Tháng 7/2019, giữa hai hộ phát sinh tranh chấp, do hộ ông Đ không đi theo cổng cũ ở trên mà mở cổng khác. Đồng thời ông Đ xây phần tường bao chắn cửa quán bán hàng của nhà bà. Bà đã làm đơn đề nghị UBND xã H giải quyết để xác định phần diện tích đất của hai hộ theo GCNQSDĐ. Quá trình giải quyết, xác định ranh giới đất, bà phát hiện hộ ông Đ có lấn chiếm đất của nhà bà. Còn một phần diện tích đất được cấp GCNQSDĐ nằm ngoài phần tường bao nhà bà xây về phía nhà ông Đ.

Ngày 15/3/2023, Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ hiện trạng sử dụng đất của hai hộ gia đình. Theo kết quả chồng ghép bản đồ hiện trạng sử dụng đất thì hộ ông Đ đang lấn chiếm đất tại các điểm ABC diện tích là 19,4m2; điểm BCDE diện tích là 67,5m2; điểm GHK diện tích là 18m2. Tổng diện tích đất hộ ông Đ lấn chiếm của gia đình bà là 104,9m2. Trên phần diện tích đất lấn chiếm hiện nay ông Đ có xây công trình và trồng một số cây cối lâm lộc. Nay bà yêu cầu hộ ông Đ, bà A phải tháo dỡ, di dời các công trình tài sản và trả lại bà 104,9m2 đất vườn để gia đình bà quản lý sử dụng. Đối với diện tích đất 3,8m2 nằm ngoài GCNQSDĐ của hộ gia đình bà H theo kết quả chồng ghép là điểm EFG, bà H không đề nghị Tòa án giải quyết mà tự tháo dỡ tường bao để trả đất cho gia đình ông Đ.

Bị đơn - ông Phan Văn Đ, bà Trần Thị A thống nhất quan điểm trình bày: gia đình ông bà có thửa số 610, tờ bản đồ số 25 diện tích 1.010m2 đất (trong đó có 360m2 đất ở, 616m2 đất vườn) được cấp GCNQSDĐ ngày 05/3/1995 mang tên ông Đ (đo đạc thực tế ngày 15/3/2023 là 1.227m2). Nằm liền kề với thửa đất của gia đình là diện tích đất của hộ ông T1, bà H thể hiện tại thửa số 609, tờ bản đồ số 25 diện tích 976m2. Nguồn gốc đất của nhà ông T1, bà H là đất cũ của các cụ cho. Còn diện tích đất của gia đình ông bà trước đây là do khai hoang, phục hóa từ trước năm 1960. Cả gia đình ông bà đều sinh sống, quản lý, sử dụng trên toàn bộ diện tích đất cũ và đất khai hoang này.

Năm 1986 bà, cụ K (mẹ đẻ ông Đ) có cho vợ chồng ông bà thửa số 610, tờ bản đồ số 25, diện tích 1.010m2. Vợ chồng ông bà xây dựng nhà mới trên đất nhưng gia đình ông bà vẫn ở chung, còn phần đất cũ có ba gian nhà ngói, hai gian bếp, bốn gian công trình phụ.

Năm 1988, vợ chồng ông bà và cụ K chuyển ra ở riêng trên phần diện tích đất tại thửa số 610, tờ bản đồ số 25. Còn vợ chồng ông T1, bà H ở trên phần đất có các công trình trên đất cũ tại thửa 609, tờ bản đồ 25. Cụ L1 có hộ khẩu riêng, ở nhà riêng tại thửa đất số 464 tờ bản đồ 25 trên đất có bốn gian nhà ngói, hai gian nhà bếp, một gian công trình phụ.

Sau khi vợ chồng ông bà, vợ chồng bà H, cụ L1 chuyển ra ở riêng trên phần diện tích đất được phân chia đã sử dụng đất ổn định, không tranh chấp. Phần ranh giới giữa đất nhà ông bà và nhà bà H được thể hiện bằng bờ rào tre trồng từ trước khi chia đất. Đến khoảng năm 1997, 1998 vợ chồng ông T1, bà H xây tường bao bằng cây ngăn cách giữa hai thửa đất làm ranh giới (hiện nay vẫn còn), khi xây tường bao cụ K vẫn còn sống. Hai hộ gia đình đã sử dụng diện tích đất như được chia kể từ năm 1986 cho đến nay ổn định, không tranh chấp, không thay đổi về ranh giới, mốc giới.

Tại phần diện tích đất tranh chấp ông bà đã sử dụng làm cổng, đường đi từ khi ra ở riêng năm 1988. Đến năm 2019, ông bà làm nhà mới, không đi cổng cũ ông bà có lấp cổng, xây tường cây, từ đó hộ bà H cho rằng gia đình ông bà lấn chiếm đất nên đã xảy ra tranh chấp.

Sau khi UBND xã H xác định mốc giới, ranh giới theo GCNQSDĐ giữa hộ nhà ông bà và hộ bà H thì ông bà mới phát hiện một phần diện tích đất của nhà ông bà được chia năm 1988 cấp sang phần đất nhà ông T1. Ông bà khẳng định bản đồ đo đạc năm 2012 là đúng với hiện trạng đất của hai hộ gia đình chia năm 1988. Đối với đo đạc bản đồ năm 1993 làm căn cứ cấp GCNQSDĐ giữa hai hộ là không đúng với hiện trạng sử dụng, hiện trạng đất được chia.

Sau khi Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, bà H cho rằng hộ gia đình ông bà đang lấn chiếm diện tích đất các điểm ABC diện tích là 19,4m2; điểm BCDE diện tích là 67,5m2; điểm GHK diện tích là 18m2, tổng diện tích đất là 104,9m2. Trên phần diện tích đất này hiện nay gia đình ông bà có trồng một số cây cối lâm lộc. Nay bà H yêu cầu gia đình ông bà phải tháo dỡ, di rời các tài sản và trả lại đất cho hộ bà H, quan điểm của ông bà gia đình không lấn chiếm đất nên không đồng ý vì diện tích đất này gia đình ông bà được chia và sử dụng ổn định trước khi đo đạc cấp GCNQSDĐ năm 1995.

Đối với diện tích đất 3,8m2 nằm ngoài GCNQSDĐ của hộ gia đình bà H lấn chiếm của gia đình ông theo kết quả chồng ghép là điểm EFG, ông không đề nghị Tòa án giải quyết. Ông đề nghị Tòa án căn cứ hiện trạng hai gia đình đang sử dụng, căn cứ bản đồ đo đạc năm 2012 làm căn cứ giải quyết tranh chấp đất giữa hai hộ gia đình.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - anh Phan Văn Y, anh Phan Văn H2, chị Nguvễn Thị T, chị Phan Thị H3 thống nhất quan điểm trình bày: các anh chị nhất trí với lời khai của ông Đ, bà A đã trình bày và không bổ sung gì thêm.

Đại diện UBND huyện T - ông Ngô Nqọc Đ1- Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện L trình bày: theo hồ sơ địa chính xã H, hộ ông T1, bà H quản lý và sử dụng thửa đất số 609, tờ bản đồ số 25, diện tích 976m2 tại thôn C, xã H. Ngày 05/3/1995, UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho hộ ông T1 diện tích 2.416m2, trong đó có thửa đất số 609, tờ bản đồ số 25, diện tích đất 976m2 (360m2 đất ở, 616m2 đất vườn). Việc cấp GCNQSDĐ cho ông hộ ông T1 là đảm bảo đúng quy định của pháp luật đất đai. Tại thời điểm cấp GCN thì hộ ông T1 có bốn thành viên gồm: ông T1 là chủ hộ, bà H, anh Phan Văn T và anh Phan Văn H1. Sau khi được cấp GCNQSDĐ thì hộ gia đình bà H sử dụng đất ổn định, không tranh chấp với các hộ giáp ranh liền kề.

Năm 2012, UBND xà H đo đạc bản đồ địa chính chính quy, thửa đất hộ bà H quản lý, sử dụng được thể hiện là thửa số 101, tờ bản đồ số 78, diện tích 1.351,6m2 (hiện trạng đã đo cả phần diện tích thửa đất số 464, đồ số 25, diện tích 560m2 của bà Vũ Thị L1, mẹ chồng bà H). Đến nay thửa đất hộ bà H sử dụng chưa được cấp đổi GCNQSDĐ theo bản đồ địa chính.

Theo hồ sơ địa chỉnh xã H, hộ ông Đ quản lý và sử dụng thửa đất số 610, tờ bản đồ số 25, diện tích 1.010m2 tại thôn C, xã H và được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ ngày 05/3/1995 diện tích 3.890m2, trong đó có thửa đất số 610, tờ bản đồ số 25, diện tích đất 1.010m2 (360m2 đất ở, 650m2 đất vườn). Việc cấp GCNQSDĐ cho ông hộ ông Đ đảm bảo đúng quy định. GCNQSDĐ này là cấp cho hộ ông Đ, tại thời điểm cấp GCN thì hộ ông Đ có năm thành viên gồm: ông Đ là chủ hộ, bà A, anh Phan Văn Y, anh Phan Văn H2, chị Phan Thị H3. Sau khi được cấp GCNQSDĐ hộ gia đình ông Đ sử dụng đất ổn định, không tranh chấp với các hộ giáp ranh liền kề.

Năm 2012, UBND xà H đo đạc bản đồ địa chính chính quy, thửa đất hộ Đầm được thể hiện là thửa số 144, tờ bản đồ số 78, diện tích 1.211,4m2. Đến nay thửa đất hộ ông Đ sử dụng chưa được cấp đổi GCNQSDĐ.

Tháng 7/2019, giữa hộ bà H và hộ ông Đ phát sinh tranh chấp. Lý do là hộ ông Đ không đi theo cổng cũ như trước mà xây dựng cổng mới. Đồng thời hộ ông Đ xây phần tường bao chắn cửa quán bán hàng của nhà bà H. Kiểm tra hiện trạng sử dụng đất thấy: hai hộ sử dụng đất theo hiện trạng có biến động về ranh giới so với bản đồ địa chính đo đạc năm 1993 và GCNQSDĐ đã cấp. Tuy nhiên hộ bà H và hộ ông Đ đã xây dựng tường bao kiên cố ngăn cách theo đúng số liệu đo đạc bản đồ năm 2012. UBND xă H đã kiểm tra, đo đạc và tiến hành hoà giải giữa hai hộ gia đình, tuy nhiên kết quả hoà giải không thành.

Ông Đ cho rằng ranh giới hiện trạng đà được hai hộ gia đình sử dụng ổn định từ năm 1988 sau khi được ông cha chia đất, bản đồ đo đạc năm 1993 là không thể hiện đúng ranh giới gia đình thực tế sử dụng. Sau khi UBND huyện cấp GCNQSDĐ cho các hộ gia đình nêu trên, đến nay UBND huyện không nhận được đơn giải quyết việc tranh chấp đất giữa các hộ gia đình bà H, ông Đ và các hộ liền kề khác trong thời gian qua.

Căn cứ vào Luật đất đai năm 1993Luật đất đai 2013, nguồn gốc, diễn biến việc sử dụng đất, căn cứ vào hồ sơ địa chính qua các thời kỳ. Căn cứ các quy định pháp luật. Đề nghị Tòa án nhân dân huyện giải quyết vụ việc theo quy định pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - UBND xã H, do ông Đào Tiến D- Chủ tịch trình bày: UBND xã H đưa ra ý kiến thống nhất giống với Văn bản trình bày quan điểm của UBND huyện L về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất của hộ bà H và hộ ông Đ.

Đối với việc giải quyết tranh chấp đất: tháng 7/2019, bà H có gửi đơn đến UBND xã H yêu cầu giải quyết tranh chấp đất giữa hai hộ gia đình. Ngày 16/10/2019, UBND xã H đã thành lập Hội đồng tư vấn giải quyết đơn tranh chấp đất của bà H. Qua xác minh, kiểm tra, thu thập các tài liệu liên quan đến hai thửa đất của gia đình bà H và ông Đ đang sử dụng. UBND xà đà tổ chức nhiều buổi hòa giải nhưng do ông Đ không nhất trí về ranh giới, nên các bên không thỏa thuận được. Căn cứ vào Luật đất đai năm 1993 và 2013, nguồn gốc, diễn biến việc sử dụng đất, căn cứ vào hồ sơ địa chính qua các thời kỳ. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ việc theo quy định pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.

Với nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm 44/2023/DS-ST ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã căn cứ Điều 10, Điều 50 của Luật đất đai năm 2003; Điều 12, Điều 100, Điều 125, Điều 166, Điều 203 của Luật đất đai năm 2013; Điều 164, Điều 166, Điều 167, Điều 169 của Bộ luật dân sự 2015. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H. Buộc hộ ông Pham Văn Đ2, bà Trần Thị A phải trả hộ bà Vũ Thị H tổng diện tích 104,9m2 đất vườn đà lấn chiếm tại thửa số 609, tờ bản đồ số 25 nằm trong diện tích 976m2 (trong đó có 360m2 đất ở, 616m2 đất vườn) đã được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 05/3/1995 mang tên ông Phan Văn T1. Địa chỉ thôn C, xà H, huyện L, tỉnh Bắc Giang, trị giá đất là 157.350.000 đồng ( Một trăm năm mươi bảy triệu, ba trăm năm mươi nghìn đồng).

Diện tích 19,4m2 đất vườn là các điểm ABC có các cạnh cụ thể như sau: cạnh AB = 7,3m; Cạnh BC = 3,3m+ 1,5m+1,4m; Cạnh CA = 6,6m Diện tích đất vườn là 67,5m2 là các điểm BCDE có các cạnh cụ thể như sau: cạnh BC = 3,3m+ 1,5m+1,4m; Cạnh CD = 2,3m+3,7m; Cạnh DE =11,8m; Cạnh EB =10,8m.

Diện tích đất vườn là 18,0m2 là các điểm GHK có các cạnh cụ thể như sau: cạnh GH =10,8m; KG = 10,9m; HK =3,2m (có sơ đồ kèm theo) Buộc hộ ông Phan Văn Đ, bà Trần Thị A phải tháo dỡ, di dời toàn bộ các tài sản công trình có trên đất tranh chấp gồm: 01 bức tường cay vôi dài 14,63m2 trị giá 351.000 đồng; 01 trụ cổng trị giá 118.100 đồng; 01 nhà chăn nuôi loại C trị giá 84.000 đồng; 03 cột bê tông cốt thép trị giá 109.100 đồng; 01 cây hồng xiêm trị giá 195.000 đồng; 01 cây sấu trị giá 1.055.000 đồng; 01 cây móc mật trị giá 80.000 đồng; 02 cột bê tông cốt thép trị giá 60.600 đồng; 01 cây hồng trị giá 265.000 đồng; 01 cây keo trị giá 500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản do hộ ông Đ xây dựng là 2.817.800 đồng (Hai triệu, tám trăm mười bảy nghìn tám trăm đồng) để trả lại đất cho hộ bà Vũ Thị H.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền yêu cầu thi hành án, lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 30/8/2023 ông Đ kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án phúc thẩm xét xử lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vắng mặt, bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Ông Đ phát biểu ý kiến tranh luận: đất gia đình ông sử dụng từ năm 1988, có ranh giới rõ ràng, việc nhà nước đo đạc bản đồ năm 1992, gia đình ông không biết. GCNQSĐ cấp gia đình ông nhận xong cất vào tủ không để ý, ông khẳng định gia đình ông không lấn chiếm đất của gia đình bà H.

Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, Thẩm phán, HĐXX, Thư ký đã thực hiện đúng, đủ quy định của BLTTDS, một số đương sự không thực hiện đúng các quyền nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS. Sau khi xem xét yêu cầu kháng cáo của ông Đ, phân tích nội dung, các tình tiết của vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS, xử: không chấp nhận kháng cáo của ông Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1]. Về tố tụng: tại phiên tòa phúc thẩm việc vắng mặt lần thứ hai của bà Vũ Thị H là nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - anh Phan Văn L, anh Phan Văn H1, chị Đặng Thị M; bà Trần Thị A là bị đơn; đại diện UBND huyện L, đại diện UBND xã H, anh Phan Văn Y, anh Phan Văn H2, chị Dương Thị N, chị Nguyễn Thị T, chị Phan Thị H3 là những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo. HĐXX căn cứ khoản 2 và khoản 3 Điều 296 BLTTDS tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Xét nội dung vụ án, HĐXX thấy: về nguồn gốc thửa đất số 609, tờ bản đồ số 25, diện tích 976m2 của hộ gia đình bà Vũ Thị H, ông Phan Văn T1 và thửa đất số số 610, tờ bản đồ số 25, diện tích đất 1.010m2 của hộ ông Phan Văn Đ tại thôn C, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang là do cụ Vũ Thị L1 (bà nội của ông Đ, ông T1) khai hoang, sử dụng chia cho. Ngày 05/3/1995, UBND huyện L cấp GCNQSD đất cho hộ ông Phan Văn T1 và ông Phan Văn Đ với diện tích đất như trên.

Căn cứ kết quả đo hiện trạng ngày 15/3/2023 dùng phương pháp chiếu trùng khít giữa sơ đồ đất giao cho hộ ông Phan Văn T1 (chồng bà Vũ Thị H) cấp ngày 05/3/1995 và sơ đồ giao đất cấp cho hộ ông Phan Văn Đ thì phần đất tranh chấp nằm hoàn toàn trong GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Phan Văn T1 (chồng bà Vũ Thị H) hiện toàn bộ diện tích đất tranh chấp này đang do gia đình ông Phan Văn Đ quản lý, sử dụng. GCNQSDĐ đã cấp cho hộ gia đình ông T1 (chồng bà H) và GCNQSDĐ đã cấp cho gia đình ông Đ ngày 05/3/1995 diện tích phù hợp với bản đồ địa chính năm 1992 là căn cứ cấp GCNQSDĐ cho các hộ này. Căn cứ kết quả đo đạc trồng ghép bản đồ cấp GCNQSDĐ và hiện trạng sử dụng đất của hai hộ thì thấy diện tích 104,9m2 bà H khởi kiện ông Đ thuộc quyền quản lý, sử dụng của gia đình bà H theo GCNQSDĐ đã cấp ngày 05/03/1995. Vì vậy tòa án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H buộc hộ ông Phan Văn Đ bà Trần Thị A trả lại gia đình bà H diện tích 104,9m2 đất trồng cây đà lấn chiếm trên và buộc ông Phan Văn Đ, bà Trần Thị A phải tháo dỡ, di dời toàn bộ các tài sản công trình có trên đất tranh chấp là có căn cứ.

Tại phiên tòa, ông Phan Văn Đ trình bày không đồng ý với bản đồ địa chính năm 1992 làm căn cứ cấp GCNQSDĐ cho các hộ trong đó có hộ gia đình ông Đ, hộ gia đình bà H mà đề nghị HĐXX căn cứ vào bản đồ địa chính đo đạc năm 2012 để làm căn cứ giải quyết vụ án. HĐXX thấy, ngày 05/03/1995, hai gia đình ông Đ, ông T1 (chồng bà H) được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất hai gia đình quản lý, sử dụng nguồn gốc do bố mẹ cho. Thời điểm cấp GCNQSDĐ cho các hộ này dựa trên bản đồ địa chính năm 1992. Sau khi được cấp GCNQSDĐ hai gia đình sử dụng không có ý kiến, khiếu nại gì. Năm 2012, nhà nước tiến hành đo đạc lại bản đồ địa chính theo hiện trạng sử dụng đất, bản đồ năm 2012 không phải bản đồ UBND huyện L sử dụng làm căn cứ cấp GCNQSDĐ nên ý kiến trên của ông Đ không có căn cứ chấp nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm ông Đ không xuất trình được chứng cứ nào mới chứng minh cho kháng cáo của mình. Vì vậy kháng cáo của ông Đ không được chấp nhận.

[3]. Về án phí dân sự phúc thẩm: căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: ông Đ là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Xử: không chấp nhận kháng cáo của ông Phan Văn Đ. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 44/2023/DSST ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

2. Về án phí: ông Phan Văn Đ được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 06/2024/DS-PT

Số hiệu:06/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về