TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 04/2024/DS-PT NGÀY 16/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 16 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2023/TLPT-DS ngày 22 tháng 02 năm 2023 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 03 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 63/2023/QĐPT-DS ngày 28 tháng 8 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2023/DS-PT ngày 06/9/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2023/DS-PT ngày 19/9/2023; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 03/2023/QĐPT-DS ngày 27/9/2023 và Thông báo thời gian xét xử giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn V (tên gọi khác: Trần Văn Q), sinh năm 1969;
Địa chỉ: Khu dân cư S, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
2. Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1926 và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1931 (đều đã chết).
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị K đồng thời là những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
2.1. Anh Trần Quốc S, sinh năm 1963.
Nơi ĐKHKTT: Khu dân cư S, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
Nơi công tác hiện nay: Phân xưởng sửa chữa cơ nhiệt M- Công ty dịch vụ sửa chữa các nhà máy N6 (địa chỉ: khu H, phường M, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh).
Người đại diện theo ủy quyền của anh S: Chị Hoàng Hải Y, sinh năm 1972. Địa chỉ: số D, Lê Thánh T1, khu E, T, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
2.2. Chị Trần Thị T2, sinh năm 1964.
2.3. Anh Trần Văn T3, sinh năm 1967.
2.4. Chị Trần Thị V1, sinh năm 1972.
Người đại diện theo ủy quyền của chị V1: Anh Trần Văn S1, sinh 1966.
2.5. Chị Trần Thị Hồng N, sinh năm 1982.
Đều có địa chỉ: Khu dân cư S, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
2.6. Chị Trần Thúy N1, sinh năm 1984.
Địa chỉ: Số A, KDC T, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Trần Thị H, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Khu dân cư S, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
Người đại diện theo ủy quyền của chị H: Anh Trần Văn V (tên gọi khác: Trần Văn Q), sinh năm 1969. Địa chỉ: Khu dân cư S, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
- Anh Vũ Văn ú, sinh năm 1982; địa chỉ: KDC số I, P, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
- Anh Trần Văn S2, sinh năm 1984; trú tại: Thôn E, xã A, huyện T, Hải Phòng. Nơi làm việc: Nhà máy N7 (xã T, huyện T, Hải Phòng).
- Anh Trần Văn S1, sinh năm 1966; địa chỉ: Khu dân cư S, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
- Phòng C tỉnh Hải Dương; Người đại diện hợp pháp: Bà Lê Thị D- Trưởng văn phòng C1.
- Ủy ban nhân dân phường P, thành phố C; Người đại diện theo pháp luật; Chủ tịch UBND phường P.
4. Người kháng cáo: Anh Trần Quốc S là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn.
(Tại phiên tòa có mặt anh V, anh S, chị Y; vắng mặt đại diện phòng C tỉnh Hải Dương, đại diện UBND phường P; anh S, anh S2, chị T2, chị T3, chị V1, anh S1, chị N, chị N1, chị H).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án dân sự sơ thẩm và các tài liệu trong hồ sơ, vụ án có nội dung như sau:
Ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị K sử dụng diện tích đất thổ cư 1.960m2 tại khu dân cư S, thị trấn P, huyện C (nay là phường P, thành phố C), tỉnh Hải Dương từ những năm 1955. Ngày 14/3/1993 theo chủ trương chung của Nhà nước về việc đo đất cho các hộ dân để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đoàn đo đạc đã đến đo đạc đất nhà ông T, bà K. Ông T yêu cầu đoàn đo đạc tách toàn bộ diện tích đất của vợ chồng ông ra làm 03 phần: 01 phần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên chị Trần Thị T2 (con gái), 01 phần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Trần Văn V (con trai), 01 phần mang tên ông T. Ngày 08/4/1994, UBND tỉnh H (nay là Hải Dương) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 3 thửa: chị Trần Thị T2 thửa số 259, tờ bản đồ số 9, diện tích 358m2; anh Trần Văn V thửa số 257, tờ bản đồ số 9, diện tích 734 m2; ông Trần Văn T thửa số 238, tờ bản đồ số 9, diện tích 868m2, các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều đóng dấu chữ ký của Chủ tịch UBND tỉnh H. Năm 1995, anh Trần Văn V kết hôn với chị Nguyễn Thị H1, ông T và bà K cho anh chị ra ở ngồi nhà ba gian do ông bà xây dựng trước năm 1990 trên diện tích đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh V. Từ năm 1997 đến năm 2002, ông T vẫn đóng thuế và trồng cây ngắn ngày, trồng cây cảnh trên diện tích đất này. Vợ chồng anh V sửa nhà ở, làm nhà tắm. Năm 2003, ông T tuyên bố chỉ cho anh V diện tích đất có chiều ngang 8m trong tổng số 30m chiều ngang mặt đường, anh V không đồng ý. Ông Tất phá nhà, đuổi vợ chồng anh V không cho ở nhà đất đó nữa. Vợ chồng anh V đi ở nhà chỗ khác.
Tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai và các tài liệu trong hồ sơ, nguyên đơn là anh Trần Văn V trình bày:
Ngày 14/3/1993, khi có đoàn đo đạc đến để làm thủ tục, bố mẹ anh đã tự nguyện tách cho anh diện tích đất. Anh đã ký vào đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngay ngày hôm đó. Anh xác định việc ông T, bà K cho tặng nhà đất cho anh là hoàn toàn tự nguyện mặc dù không ký hợp đồng bằng văn bản cũng như không có thỏa thuận miệng với nhau. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông T đã đưa cho anh và tuyên bố cho anh nhà đất có sự chứng kiến của bà K. Sau này khi sử dụng, vợ chồng anh đã nhiều lần sửa chữa, xây thêm công trình phụ, ông T và bà K cũng không phản đối. Trong quá trình vợ chồng anh Sử dụng nhà đất, ông T và bà K vẫn trồng rau, trồng cây cảnh trên phần đất mà anh đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thực tế giữa hai nhà từ trước cho đến nay không rào ranh giới, không xây tường bao ngăn cách. Anh xác định được ranh giới giữa hai nhà là do anh trực tiếp chứng kiến việc đo đạc, vẫn còn móng nhà đã phá và hiện trạng đất vẫn như vậy không thay đổi trong nhiều năm. Nay anh xác định bố mẹ anh đã cho tặng anh toàn bộ diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên từ năm 1993 nên thuộc quyền sử dụng của anh. Do gia đình làm lối đi chung cũng như sai số trong việc đo vẽ nên theo hiện trạng đo vẽ hiện tại diện tích chỉ còn 698m2. Anh đề nghị được sở hữu, sử dụng diện tích đất nói trên. Hiện tại, trên đất chỉ còn 01 nhà tắm cũ, không còn giá trị sử dụng nên anh đề nghị không định giá, không yêu cầu giải quyết. Ông T, bà K đã chết không để lại di chúc, do vậy anh đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định pháp luật để giải quyết.
Ông Trần Văn T trình bày: Năm 1993, khi thấy Nhà nước có chủ trương đo đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu tiên, ông sợ đất nhà mình rộng thì Nhà nước sẽ thu hồi bớt. Do vậy, ông đã bí mật tách đất của vợ chồng ra thành 3 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để ông quản lý, sau này sẽ cho con cháu vì vợ chồng ông đông con, nhiều cháu. Khi đoàn đo đất đến, ông đã tự chỉ các mốc giới, bà K và anh V đều không biết. Sau này, ông có nói chuyện tách đất, bà K không có ý kiến. Sau khi nhận được 3 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông, anh V, chị T2, ông đã cất để quản lý. Năm 1995, anh V lấy vợ, ông và bà K cho vợ chồng anh V ra ở nhờ đất này. Trước đó, các anh trai của anh V khi lấy vợ đều được ông bà cho ra ở đó rồi mới chuyển ra chỗ khác. Khoảng năm 2001, anh V cậy tủ lấy trộm tiền và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó mang thế chấp vay tiền tại Quỹ tín dụng thị trấn P. Nay ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh V, ông xác định ông và bà K không cho nhà và đất cho anh V.
Bà Nguyễn Thị K trình bày: Năm 1993 (ngày tháng bà không nhớ), khi đoàn đo đất đến nhà bà, ông T có bảo với bà đất rộng sợ xã thu hồi nên ông tách đất làm 03 sổ, một số mang tên anh V rộng 734m2, một số mang tên ông T, 1 sổ mang tên chị T2. Khi bà biết ông T tách đất cho anh V thì bà phản đối nhưng ông T đã nói bà biết gì mà nói nên từ đó bà không phản đối nữa vì trong gia đình bà ông T là người gia trưởng, độc đoán. Đến khoảng năm 2000, ông T nói mất bìa đỏ thì bà K mới biết có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh V. Nay bà xác định 734m2 đất là của vợ chồng bà, chưa cho anh V.
Anh Trần Quốc S trình bày: Anh không biết việc ông T, bà K tặng cho anh V nhà đất cũng như tách bìa đỏ như thế nào vì công tác xa nhà, không sống chung cùng bố mẹ. Năm 2006, anh được ông T ủy quyền tham gia tố tụng, tham gia phiên tòa phúc thẩm, lúc ấy anh mới biết diện tích đất của bố mẹ anh đã tách ra 03 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 01/9/2008, ông Tất t viết di chúc phân chia toàn bộ diện tích đất của ông bà tặng cho các con cháu. Cụ thể cho những ai, diện tích như thế nào anh không biết. Anh được tặng cho 336m2 trong tổng diện tích đất để làm nhà thờ, ngày 16/6/2009 anh được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Anh không biết việc UBND huyện C ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này vì anh vẫn đang giữ. Do vụ án kéo dài hơn 10 năm nên anh không đề nghị Tòa án xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, cũng không đề nghị Tòa án tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ, không đề nghị hòa giải. Bố mẹ anh đều đã chết, là con trưởng nhưng anh không tổ chức cuộc họp gia đình nào, anh em cũng không hòa hợp để bàn việc được với nhau. Quan điểm của anh không đồng ý yêu cầu khởi kiện của anh V, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Trên diện tích đất tranh chấp còn một số chậu hoa cây cảnh của anh, Tòa án giải quyết xong vụ án tuyên cho ai thì anh Sẽ lấy về. Anh đề nghị được vắng mặt trong các buổi làm việc nhưng Tòa án phải thông báo cho anh kết quả của buổi làm việc.
Chị Trần Thị T2 trình bày: Năm 1993, ông T và bà K là bố mẹ đẻ chị tách đất cho chị và anh V đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chị xây nhà ở ổn định từ đó cho đến nay. Việc ông bà tặng cho cụ thể thế nào thì chị không biết. Sau đó, anh V lấy vợ ở ngôi nhà mái bằng trên diện tích đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến khi xảy ra mâu thuẫn. Ngôi nhà này do bố mẹ chị xây dựng từ năm 1985 cùng với sự giúp sức của các con. Bố chị chết năm 2008, do ông có để lại di chúc nên UBND thị xã C đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cháu và cả anh S vào năm 2009. Năm 2014, UBND thị xã C có quyết định thu hồi toàn bộ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Năm 2018, mẹ chị chết không để lại di chúc, hiện trạng thửa đất tranh chấp không thay đổi và không ai quản lý. Do chị sống bên cạnh nên có trồng một ít cây rau ngắn ngày và trên đất còn có nhiều chậu cây cảnh của anh S để ở đó từ trước. Kể từ sau khi mẹ mất, các anh chị em cũng không tổ chức họp gia đình lần nào và cũng không cử ai thay mặt bố mẹ chị để tham gia tố tụng tại Tòa án. Vụ án kéo dài, anh em không thể thỏa thuận được với nhau nên đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết và đề nghị không triệu tập chị vì chị không liên quan đến việc tranh chấp. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị đã nộp trả cho UBND thị xã C theo quyết định thu hồi, đề nghị trả lại cho chị vì diện tích đất chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không liên quan đến diện tích đất tranh chấp. Chị vẫn sinh sống ổn định từ đó cho đến nay.
Anh Trần Văn T3 trình bày: Anh không biết và cũng không chứng kiến việc bố mẹ anh cho nhà và đất anh V. Khi anh V và bố mẹ anh xảy ra mâu thuẫn, anh chỉ nghe kể có việc bố anh tách đất cho anh V. Khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bố anh vẫn giữ, sau này anh V lấy trộm để vay tiền quỹ tín dụng. Hiện bố mẹ anh đều đã chết, anh em trong gia đình cũng không bàn bạc được với nhau đề cử người tham gia tố tụng. Anh có quan điểm việc tranh chấp này không liên quan đến anh, đề nghị Tòa án không triệu tập anh và giải quyết theo quy định của pháp luật Chị Trần Thị V1 trình bày: Việc bố mẹ chị tách đất cho anh V chị không biết và không chứng kiến. Sau này vợ chồng anh V sống tại ngôi nhà trên diện tích đất đang tranh chấp trong nhiều năm thì phát sinh mâu thuẫn với bố chị. Ông T đã đuổi vợ chồng anh V ra khỏi nhà. Hiện bố mẹ chị đều đã chết, anh em không bàn bạc được với nhau về việc giải quyết vụ án cũng như cử người tham gia tố tụng. Bản thân chị hiện xây nhà ở ổn định trên diện tích đất của bố mẹ chị cho chị T2, không liên quan đến phần diện tích đang tranh chấp nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật và không triệu tập chị tham gia tố tụng.
Chị Trần Thị Thúy N2 trình bày: Chị có biết việc ông T, bà K cho chị em chị một diện tích đất của ông bà, còn cụ thể bao nhiêu chị không biết. Chị xác định chị không liên quan gì đến việc giải quyết vụ án vì vậy đề nghị được vắng mặt tại các buổi làm việc tại Tòa, kể cả phiên tòa xét xử.
Chị Trần Thị H trình bày: Chị kết hôn với anh V năm 1995, sau khi kết hôn, chị về nhà anh V ở căn nhà mái bê tông mà gia đình anh V đã xây trước đó, ông T, bà K ở nhà cấp 4 bên cạnh. Năm 1997, chị sinh cháu đầu lòng, do trời nóng, nhà nền vôi chật chội nên vợ chồng chị đã lợp mái chống nóng và lát nền nhà 2 gian ngoài cho sạch. Nhiều năm sau do bất hòa giữa ông T và anh V về mảnh đất mà ông T đã cho anh V trước khi kết hôn với chị, ông T nhiều lần đã yêu cầu vợ chồng chị dọn đi chỗ khác và yêu cầu vợ chồng chị xây nhà sang phần diện tích đất ông cho, anh V không nghe, không chuyển đi chỗ khác, ông Tất b đã nhiều lần đập phá tường nhà. Đến khoảng tháng 3/2004 thì ông Tất p sập nhà, ông T dùng búa đập phá nhà hỏng một số tài sản khác của vợ chồng chị. Trước đây, chị có yêu cầu ông T phải bồi thường nhưng nay do vụ án kéo dài, ông T, bà K đều đã chết nên chị không yêu cầu bồi thường nữa. Trên đất đang tranh chấp hiện còn 01 gian nhà tắm cũ, không còn giá trị sử dụng, do vậy chị không yêu cầu giải quyết về tài sản trên đất.
Tại Biên bản xác minh, ông Phạm Công K1 - Phó chủ tịch UBND phường P, Chí L cung cấp: Qua kiểm tra các văn bản pháp luật quy định về đất đai từ năm 1993 không có văn bản nào thể hiện việc nếu ông T có đất rộng không tách cho các con thì sẽ bị nhà nước thu hồi. Hiện trạng giữa diện tích đất đang tranh chấp với diện tích đất thuộc quyền sử dụng của ông T, bà K là hai thửa liền kề, không có tường bao, địa vật ngăn cách. Việc xác định được mốc giới chủ yếu là căn cứ dựa vào ngôi nhà ông T khi còn sống ở và móng nhà còn lại anh V ở trước đây đã bị phá. Phía nhà chị T2 ranh giới là mương nước và tường bao ngăn cách. Hiện ông T, bà K đều đã chết nên việc xác định diện tích đất ông bà T, K sử dụng trong diện tích đất đang tranh chấp không xác định được. Là bố con ruột thịt, anh V là con duy nhất sống cùng ông bà, khi đó ông T, bà K cũng chỉ trồng rau ngắn ngày, để chậu cây cảnh chứ không sử dụng để xây dựng công trình kiên cố.
Biên bản xác minh với ông Vũ Văn T4, cán bộ địa chính thị trấn P: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Trần Văn V có diện tích sử dụng là 734 m2 do chủ tịch Nguyễn DI ký và đóng dấu chưa được xác nhận tại trang 3. Do có tranh chấp nên hiện chưa được xác nhận để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, xem xét hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh Trần Văn V ngoài đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có chữ ký anh V ngoài ra không có tài liệu gì. Việc địa phương đo và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T, anh V, chị T2 là có thật, còn việc ông Tất tl cho như thế nào địa phương không nắm được.
Lời khai của một số người làm chứng:
Lời khai của ông Nguyễn Đức N3: Năm 1993, ông có được cử đi đo đất ở của các hộ gia đình trong thôn cùng với ông đội trưởng và một số người khác trong tổ. Ông có đo đất cho nhà ông Trần Văn T, khi đó ông T chỉ đâu đo đó, cụ thể như thế nào thì ông không còn nhớ.
Lời khai của ông Nguyễn Văn P: Khi đó ông là đội trưởng đội sản xuất tham gia tổ công tác của địa phương về đo đạc tách đất. Khi đến đo nhà ông T, ông T trình bày trực tiếp với tổ đo đạc phân chia đất làm 04 thửa. Việc các hộ gia đình tách đất cho các con thời điểm năm 1993 chỉ đơn giản là đề nghị miệng trực tiếp với tổ đo đạc chứ không đơn từ, giấy tờ gì. Ông T nói với đoàn đo đạc đất rộng nên tách cho các con. Ông T chỉ đến đâu đoàn đo đến đó.
Lời khai của ông Đoàn Văn T5: Ông là cháu họ của ông T, do vậy chuyện gia đình ông T ông cũng biết. Năm 1995, sau khi anh V lấy vợ, ông T bà K có cho vợ chồng anh V ra ở ngôi nhà trên diện tích anh V đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau này, vợ chồng anh V có sửa nhà, xây dựng thêm công trình phụ và ở ổn định cho đến khi ông T và anh V xảy ra mâu thuẫn và ông Tất phá nhà đuổi vợ chồng anh V ra chỗ khác sinh sống.
Lời khai của bà Trần Thị T6: Bà là em gái của ông T. Bà có biết việc ông T cho đất các con có nói miệng với các con và chỉ mốc giới phân chia. Sau khi anh V lấy vợ, ông T cho anh V ra ở ngôi nhà trên diện tích đất đã cho anh V. Việc cho nhà và cho đất anh V là thực tế.
Lời khai ông Trần Văn L1: Khi anh V lấy vợ, ông T, bà K có cho nhà và đất cho anh V để ra ở riêng.
Tại Bản án sơ thẩm số 03/2005/DS-ST ngày 30/9/2005, Tòa án nhân dân huyện Chí Linh đã xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn V, xác định hợp đồng tặng cho bất động sản giữa ông T, bà K và anh V là hợp pháp. Anh V có quyền sử dụng 734m2 đất đã được tặng cho. Ông T, bà K kháng cáo toàn bộ bản án, khẳng định ông bà chưa cho anh V đất.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 26/2006/DS-PT ngày 21/11/2005, TAND tỉnh Hải Dương đã xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao TAND huyện Chí Linh xét xử sơ thẩm lại vụ án theo hướng: Làm rõ hợp đồng tặng cho bất động sản giữa ông T, bà K và anh V có căn cứ không hoặc chỉ là việc chuyển quyền sử dụng đất; Làm rõ yêu cầu phản tố của bà K,...
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2006/DSST ngày 14/7/2006, TAND huyện Chí Linh đã xử: Bác yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn V về quyền sử dụng 734m2 đất tại số thửa 257, tờ bản đồ số 9 thuộc thôn T, thị trấn P, C, Hải Dương. Xác định 734m2 đất trên thuộc quyền sử dụng của ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị K. Ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị K có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng 734m2 đất này với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Buộc ông T, bà K phải thanh toán cho anh V giá trị tài sản đã xây dựng trên đất gồm nhà tắm, bếp (kho) là 6.582.000đ. Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 26/07/2006, anh Trần Văn V có đơn kháng cáo với nội dung không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, đề nghị Toà cấp phúc thẩm xử chấp nhận cho anh có quyền sử dụng 734 m2 đất ở.
Tại Bản án phúc thẩm số 23/2006/DS-PT ngày 24/8/2006, TAND tỉnh Hải Dương tuyên xử : Y án sơ thẩm, sửa nội dung về án phí.
Cùng ngày 26/3/2008, UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 604638 đối với thửa đất số 56, tờ bản đồ số 40, diện tích 2082,7m2 (trong đó có 300m2 đất ở và 1782,7m2 đất cây lâu năm), địa chỉ: thị trấn P, huyện C, tỉnh Hải Dương, diện tích đất tranh chấp thuộc thửa 56; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 604639 đối với thửa đất số 55, tờ bản đồ số 40, diện tích 347,5m2 (đất nuôi trồng thủy sản), địa chỉ: thị trấn P, huyện C, tỉnh Hải Dương; đều mang tên ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị K.
Ngày 02/9/2008, ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị K lập di chúc phân chia diện tích đất cho vợ chồng chị T2 và anh V2, vợ chồng chị V1 và anh S1, chị Trần Thị Hồng N (là con anh N4), anh Trần Văn B (là con anh V), anh Trần Tiến D2 (là con anh T3), anh Trần Quốc S (chỉ có bản phô tô di chúc).
Ngày 04/11/2008, ông T chết. Cùng ngày 22/5/2009, Phòng C tỉnh Hải Dương công chứng 05 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của ông T, bà K đối với thửa đất số 55, 56 tờ bản đồ số 40 tặng cho anh Trần Văn S2, anh Trần Văn S1 và chị Trần Thị V1, anh Trần Quang V3 và chị Trần Thị T2, anh Vũ Văn Ú và chị Trần Thị Hồng N, anh Trần Quốc S.
Các thửa đất đã được UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày 16/6/2009 gồm:
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 838594 đối với thửa đất số 55, tờ bản đồ số 40, diện tích 347,5m2, địa chỉ: thị trấn P, huyện C, tỉnh Hải Dương; mang tên Trần Văn S2.
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 838595 đối với thửa đất số 56, tờ bản đồ số 40, diện tích 973,8m2, địa chỉ: thị trấn P, huyện C, tỉnh Hải Dương; mang tên Trần Văn S2.
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 825362 đối với thửa đất số 70, tờ bản đồ số 40, diện tích 274,9m2, địa chỉ: thị trấn P, huyện C, tỉnh Hải Dương; mang tên Nguyễn Thị K.
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 838598 đối với thửa đất số 72, tờ bản đồ số 40, diện tích 160,5m2, địa chỉ: thị trấn P, huyện C, tỉnh Hải Dương; mang tên Trần Văn S1 và Trần Thị V1.
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 838600 đối với thửa đất số 73, tờ bản đồ số 40, diện tích 211,5m2, địa chỉ: thị trấn P, huyện C, tỉnh Hải Dương; mang tên Trần Quang V3 và Trần Thị T2.
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 838597 đối với thửa đất số 71, tờ bản đồ số 40, diện tích 126m2, địa chỉ: thị trấn P, huyện C, tỉnh Hải Dương; mang tên Vũ Văn Ú và Trần Thị Hồng N.
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 838596 đối với thửa đất số 68, tờ bản đồ số 40, diện tích 336m2, địa chỉ: thị trấn P, huyện C, tỉnh Hải Dương; mang tên Trần Quốc S.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 560/2009/DS-GĐT ngày 28/10/2009, TAND tối cao quyết định: Hủy bản án phúc thẩm số 23/2006/DSST ngày 24/8/2006 của TAND tỉnh Hải Dương và bản án sơ thẩm số 05/2006/DSST ngày 14/7/2006 của TAND huyện Chí Linh.
Cùng ngày 03/4/2014, UBND huyện C có các quyết định số 94, 95, 96, 97, 98, 99, 100 về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Trần Văn S2 (02 giấy), ông Vũ Văn Ú và bà Trần Thị Hồng N, ông Trần Quốc S, ông Trần Quang V3 và bà Trần Thị T2, ông Trần Văn S1 và bà Trần Thị V1, bà Nguyễn Thị K.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2020/DS-ST ngày 20/02/2020, TAND thành phố Chí Linh đã tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện anh Trần Văn V (tên gọi khác Trần Văn Q). Xác định thửa đất số 257, tờ bản đồ 09 diện tích 698m2 tại khu dân cư S, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương thuộc quyền sử dụng của anh Trần Văn V. Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Tại giai đoạn phúc thẩm, anh Trần Quốc S xuất trình bản phô tô 5 bộ hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong đó có các hợp đồng cho, tặng quyền sử dụng đất đề ngày 10 hoặc 11/10/2008, có hợp đồng không ghi ngày tháng, chỉ ghi năm 2008 giữa bên cho là ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị K, bên được tặng cho là anh Vũ Văn Ú và chị Trần Thị Hồng N, anh Trần Tiến D2, anh Trần Văn S2, anh Trần Văn S1 và chị Trần Thị V1, anh Trần Quốc S. Các hợp đồng này đều có chứng thực của UBND thị trấn P ngày 11 hoặc 12/10/2008.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 47/2022/DSPT của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 01/2020/DS-ST ngày 20/02/2020, TAND thành phố Chí Linh.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 03/11/2022, TAND thành phố Chí Linh căn cứ các Điều 223, 388, 389, 410, 465, 667, 688, 691, 692 của Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39, Điều 74, Điều 146, Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 52, 136 Luật đất đai 2003; Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Pháp lệnh về án phí, lệ phí số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27- 02-2009; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện anh Trần Văn V (tên gọi khác Trần Văn Q):
Xác định thửa đất số 257, tờ bản đồ số 09, diện tích 698m2 tại khu dân cư S, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương thuộc quyền sử dụng của anh Trần Văn V. Anh Trần Văn V có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
2. Tuyên bố: 05 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của ông T, bà K đối với thửa số 55, 56 tờ bản đồ số 40, tặng cho anh Trần Văn S2, anh Trần Văn S1 và chị Trần Thị V1, anh Trần Quang V3 và chị Trần Thị T2, chị Trần Thị Hồng N, anh Trần Quốc S lập ngày 22/5/2009 tại phòng c tỉnh Hải Dương vô hiệu. Do các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh S2, anh S1 và chị V1, anh V3 và chị T2, chị N, anh S đã bị UBND huyện C (nay là thành phố C) thu hồi nên không xem xét hậu quả pháp lý của việc tuyên bố 05 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu.
3. Đối với 05 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 10 hoặc 11/10/2008, có hợp đồng không ghi ngày tháng chỉ ghi năm 2008 giữa bên cho là ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị K, bên được tặng cho là anh Vũ Văn ú và chị Trần Thị Hồng N, anh Trần Tiến D2, anh Trần Văn S2, anh Trần Văn S1 và chị Trần Thị V1, anh Trần Quốc S, có chứng thực của UBND thị trấn P ngày 11, 12/10/2008: Do đương sự không cung cấp bản gốc, Tòa án không thu thập được bản gốc và thủ tục pháp lý liên quan đến các tài liệu này nên không có đầy đủ căn cứ để xem xét tính hợp pháp.
4. Đối với bản di chúc của ông T đề ngày 2/9/2008: Các đương sự cũng không sử dụng di chúc này để thực hiện các giao dịch hay các thủ tục pháp lý nào nên không có căn cứ xác định tính hợp pháp của di chúc và giải quyết hậu quả của di chúc đối với thửa đất đang tranh chấp và những người liên quan đến thửa đất này.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, anh Trần Quốc S kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Anh S kháng cáo không đồng ý với toàn bộ quyết định của bản án sơ thẩm do năm 1994, ông T làm thủ tục tách đất cho anh V là tách tạm thời, không có hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, không được sự đồng ý của bà K và các anh chị em trong gia đình. TAND thành phố Chí Linh xem xét thẩm định không đúng với hiện trạng sơ đồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994. Năm 2008, ông T và bà K đã lập di chúc, sau đó lập hợp đồng tặng cho anh một phần quyền sử dụng đất, anh đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Anh xác định hợp đồng tặng cho là hợp pháp, việc TAND thành phố Chí Linh xác định anh V được quyền sử dụng 698m2 đất đã xâm phạm đến quyền lợi của anh, anh vẫn thực hiện nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước từ năm 2008 đến nay.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn anh Trần Văn V giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không đồng ý với kháng cáo của anh S, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Anh Trần Quốc S và người đại diện theo ủy quyền giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của anh. Anh S không đồng ý bản án sơ thẩm tuyên hợp đồng tặng cho vô hiệu vì việc bố mẹ anh là ông T, bà K2 tặng cho đất và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2009 là hợp pháp, anh đã đóng thuế sử dụng đất từ đó đến nay. Tòa sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu đòi đất của anh V làm ảnh hưởng đến quyền lợi của anh và những người thừa kế khác được bố mẹ cho đất. Anh chưa được Tòa án cấp sơ thẩm giải thích quyền yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu nên chưa có yêu cầu. Đề nghị HĐXX bảo vệ quyền sử dụng hợp pháp cho anh và những người thừa kế khác theo đúng ý nguyện của bố mẹ anh khi còn sống.
Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến: Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự cơ bản đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. về việc giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xác định thiếu người tham gia tố tụng là Phòng công chứng số B tỉnh Hải Dương, UBND phường P; về nội dung giải quyết không triệt để vụ án, không giải thích và xem xét giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; chấp nhận một phần kháng cáo của anh S; Hủy Bản án sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 03/11/2022 của TAND thành phố Chí Linh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của anh Trần Quốc S là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn và là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong thời hạn luật định là kháng cáo hợp lệ.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đại diện phòng c tỉnh Hải Dương, đại diện UBND phường P; anh S, anh S2, chị T2, chị T3, chị V1, anh S1, chị N, chị N2, chị H vắng mặt, đã có đề nghị xét xử vắng mặt hoặc ủy quyền nên căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự trên.
[2] Về xác định tư cách đương sự tham gia tố tụng trong vụ án: Ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị K có 6 người con là anh N4, anh S, chị T2, anh T3, anh V, chị V1. Anh N4 chết năm 1984, anh N4 có vợ là chị N5 và hai con là chị N2, chị N. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T chết năm 2008, bà K chết năm 2018 (chết sau anh N4) nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định người thừa kế quyền nghĩa vụ tố tụng của bị đơn là đầy đủ. Quá trình giải quyết vụ án cần xem xét giải quyết đối với 5 hợp đồng tặng cho ngày 22/5/2009, có công chứng của phòng C tỉnh Hải Dương; 05 hợp đồng tặng cho lập ngày 10 hoặc ngày 11/10/2008 có chứng thực của UBND phường p và di chúc của ông Trần Văn T đề ngày 2/9/2008 nên cần xác định Phòng C tỉnh Hải Dương, Ủy ban nhân dân phường P tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Cấp sơ thẩm không đưa những người trên vào tham gia tố tụng là xác định thiếu người tham gia tố tụng ảnh hưởng đến việc giải quyết triệt để nội dung vụ án, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[3] Xét nội dung vụ án thấy rằng:
[3.1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu xác định diện tích đất 734 m2 thuộc thửa đất số 257, tờ bản đồ số 09 tại khu dân cư S T, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương thuộc quyền sử dụng hợp pháp của anh vì bố mẹ anh ông T, bà K đã tự nguyện tách cho anh diện tích đất trên vào ngày 14/3/1993, khi có đoàn đo đạc đến để làm thủ tục. Anh đã ký vào đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngay ngày hôm đó và đã được Nhà nước cấp GCNQSDĐ. Anh xác định diện tích đất của anh tại thửa 257 được ông T, bà K cho tặng nhà đất nằm trong tổng diện tích 1.960m2 của ông T, bà K. Bị đơn là ông T khi còn sống và người thừa kế quyền nghĩa vụ tố tụng của ông T là anh S là người kháng cáo không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì lý do ông Tất tách đất làm 3 phần lấy tên chị T2, anh V và ông T vì ông sợ đất rộng sẽ bị Nhà nước thu hồi. Xem xét căn cứ các bên đưa ra như sau:
Căn cứ kết quả xác minh hồ sơ địa chính qua các thời kỳ, lời khai của các bên đương sự, người làm chứng thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án ông T và bà K thừa nhận ông bà có chia tách đất cho chị N5 (vợ anh N4), anh V, chị T2 còn những người con khác của ông bà cũng đều được ông bà lo chỗ ở khác ổn định. Lời thừa nhận này phù hợp với thực tế là ngày 14-3-1993 ông T, anh V, chị T2 đều có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó xác định rõ diện tích và ranh giới cụ thể của từng người. Phần diện tích của ông T là 868m2 (phía Đông giáp diện tích đất của anh V), phần đất của chị T2 là 358m2 ( phía Tây giáp phần đất của anh V), phần đất của anh V là 734 m2 nằm giữa phần diện tích đất của ông T và chị T2. Theo xác nhận của một số người làm chứng, có việc ông T tự nguyện tách đất cho anh V. Bà K biết việc ông T tách đất cho anh V nhưng cũng không có ý kiến gì phản đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngày 08-4-1994, anh V được UBND tỉnh H (nay là tỉnh Hải Dương) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông T cũng là người quản lý giấy chứng nhận này nhưng không có ý kiến gì, không có ai tranh chấp hay khiếu nại. UBND thị trấn P, huyện C cũng xác nhận anh V có tên trong sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có tên trong hồ sơ địa chính.
Xem xét quá trình thực tế quản lý sử dụng thửa đất tranh chấp: Năm 1995, anh V kết hôn với chị H và vợ chồng anh V đã ở tại nhà đất tại thửa 257 vì trên diện tích đất đó có nhà mái bằng ba gian do ông T và bà K xây từ năm 1990. Sau đó vợ chồng anh V xây dựng thêm nhiều công trình như: nhà bếp, kho, nhà tắm, làm sân, kè đá làm lối đi, đã ở và sinh hoạt ổn định trong một thời gian dài, ông T và bà K biết nhưng không phản đối.
Như vậy, việc anh V có tên tại hồ sơ địa chính, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thực tế đã thực hiện việc quản lý sử dụng thửa đất 257 nêu trên trong một thời gian dài đến khi giữa anh V và ông T mâu thuẫn nên vợ chồng anh V mới chuyển đi ở phần đất khác. Đánh giá căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế thì có cơ sở xác định việc ông T, bà K tách đất tặng cho anh V diện tích đất 734m2 tại thửa 257 từ năm 1993.
Tuy nhiên, thực tế diện tích đất của anh V và diện tích đất của ông bà T, K là hai thửa liền kề nhau, hai bên không xây dựng tường bao, khuôn viên riêng để xác định ranh giới cụ thể. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định vị trí, ranh giới giữa thửa 257 của nguyên đơn trên cơ sở lồng ghép theo bản đồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1993 và hiện trạng sử dụng. Anh V xác định được diện tích đất tranh chấp dựa trên căn cứ hiện trạng anh đã sử dụng từ trước và tại sơ đồ kèm theo biên bản định giá ngày 29/6/2005 của TAND huyện Chí Linh (khi ông T còn sống) cũng xác định thửa đất tranh chấp có hiện trạng như anh V xác định là phù hợp. Kết quả đo vẽ thẩm định tại chỗ tài sản xác định diện tích đất tranh chấp theo các mốc giới căn cứ trên thì thực tế còn là 698m2. Anh V tự nguyện chỉ yêu cầu được công nhận quyền sử dụng diện tích đất này nên cấp sơ thẩm đã nhận yêu cầu khởi kiện của anh V xác định nguyên đơn có quyền sử dụng phần diện tích đất tranh chấp theo hiện trạng thẩm định là có căn cứ. Tuy nhiên tại bản án sơ thẩm không xác định rõ vị trí ranh giới phần đất nguyên đơn có quyền sử dụng, không có sơ đồ kèm theo bản án là thiếu sót, dẫn đến bản án không thể thi hành được.
[3.2] Tuy nhiên việc xem xét giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì cần xem xét, giải quyết đối với 5 hợp đồng tặng cho ngày 22/5/2009, có công chứng của phòng C tỉnh Hải Dương; 05 hợp đồng tặng cho lập ngày 10 hoặc ngày 11/10/2008 có chứng thực của UBND phường P và di chúc của ông Trần Văn T đề ngày 2/9/2008.
Đối với 5 hợp đồng tặng cho ngày 22/5/2009, có công chứng của phòng C tỉnh Hải Dương: tại bản án sơ thẩm đã xem xét tính hợp pháp của 5 hợp đồng trên và tuyên vô hiệu vì ngày 22/5/2009, Phòng C tỉnh Hải Dương đã công chứng 05 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của ông T, bà K đối với thửa số 55, 56 tờ bản đồ số 40 tặng cho anh Trần Văn S2, anh Trần Văn SI và chị Trần Thị V1, anh Trần Quang V3 và chị Trần Thị T2, chị Trần Thị Hồng N, anh Trần Quốc S. Tại giấy chứng tử ngày 05/11/2008 do UBND phường P cung cấp thể hiện: ông Trần Văn T chết ngày 04/11/2008. Như vậy cả 05 hợp đồng công chứng trên đều có chữ ký của ông T nhưng được công chứng ngày 22/5/2009 (khi ông T đã chết hơn 06 tháng) là vi phạm Luật công chứng nên các hợp đồng tặng cho này vô hiệu. Tuy nhiên, sau khi thiết lập các hợp đồng tặng cho có công chứng nêu trên thì thửa đất số 55, 56 tờ bản đồ số 40 của ông T và bà K đã được tách thành 7 thửa trong đó có cả phần diện tích đất mà nguyên đơn đang tranh chấp kiện đòi. Trên cơ sở các hợp đồng tặng cho và đề nghị Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 16/6/2009 cho những người sử dụng đất gồm: anh Trần Văn S2, anh Trần Văn S1 và chị Trần Thị V1, anh Trần Quang V3 và chị Trần Thị T2, anh Vũ Văn Ú và chị Trần Thị Hồng N, anh Trần Quốc S.
Như vậy, các hợp đồng tặng cho trên đã phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý trên thực tế của các chủ thể được tặng cho, đã được cấp giấy chứng nhận (hiện đã bị thu hồi). Và việc xem xét chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của những người đã được tặng cho đất và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông T, bà K. Khi tuyên bố các hợp đồng tặng cho trên vô hiệu nhưng cấp sơ thẩm không giải thích hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu cho các đương sự có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là giải quyết không triệt để vụ án ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tại cấp phúc thẩm đã tiến hành lấy lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đại diện phòng C tỉnh Hải Dương, chi T2, chị N, anh S1, anh T3, chị N2 và nguyên đơn anh V cũng đều không có yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên người kháng cáo là anh S do chị Y đại diện và ý kiến của anh S2 xác định chưa được cấp sơ thẩm hỏi và giải thích về hậu quả hợp đồng vô hiệu và yêu cầu Tòa án phải giải quyết hậu quả ngay trong vụ án này. Do vậy, thiếu sót này cấp phúc thẩm không thể khắc phục xem xét giải quyết ngay được.
Đối với 05 hợp đồng tặng cho lập ngày 10 hoặc ngày 11/10/2008 có chứng thực của UBND phường P và di chúc của ông Trần Văn T đề ngày 02/9/2008: Tại bản án sơ thẩm đã xem xét nhưng kết luận chưa đủ căn cứ xác định các hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trên có hợp pháp hay không và không giải quyết hậu quả pháp lý của 05 hợp đồng này là không giải quyết triệt để vụ án như phân tích ở trên.
Khi xem xét giải quyết đối với các hợp đồng tặng cho, di chúc trên thì cần thụ lý bổ sung quan hệ pháp luật tranh chấp thì mới đảm bảo phạm vi yêu cầu khởi kiện theo quy định của pháp luật.
[4] Với phân tích trên, đã làm rõ bản án sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xác định thiếu người tham gia tố tụng; về nội dung giải quyết không triệt để vụ án, tuyên trả lại đất nhưng không rõ vị trí ranh giới và sơ đồ dẫn đến việc khó thi hành án; không giải thích và xem xét giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Những thiếu sót này không thể bổ sung tại cấp phúc thẩm được. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của anh S; hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh giải quyết lại sơ thẩm theo thủ tục chung. Do hủy án sơ thẩm nên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu khác của các đương sự sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ án.
[5] Về án phí: Do bản án sơ thẩm bị hủy nên án phí sơ thẩm sẽ được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét giải quyết lại, anh S không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308, khoản 1 Điều 310, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Nguyễn Văn S3.
1. Hủy toàn bộ Bản án số dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 03/11/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn anh Trần Văn V với bị đơn ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị K.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương giải quyết lại sơ thẩm theo thủ tục chung.
2. Về án phí sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm sẽ xác định lại khi giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Về án phí phúc thẩm: Anh S3 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả anh S3 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm do chị Hoàng Hải Y đã nộp thay anh Trần Quốc S theo biên lai số AA/2020/0003210 ngày 09/12/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 16/01/2024./.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 04/2024/DS-PT
Số hiệu: | 04/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về