Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất; lối đi và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 166/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 166/2023/DS-PT NGÀY 04/04/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT; LỐI ĐI VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 04 tháng 04 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 688/2022/TLPT-DS ngày 27 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất – Lối đi và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 50/2022/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 187/2023/QĐ-PT ngày 15 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

- Ông Đoàn Văn U, sinh năm 1951 (có mặt).

- Bà Trần Thị D, sinh năm 1951.

Cùng cư trú: Số 1116/56 đường V, khóm B 5, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

Tạm trú: Số 258/6, tổ 1X, khóm X, phường M, thành phố M, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị D: Ông Đoàn Văn U, sinh năm 1951 (có mặt).

Bị đơn: Ông Võ Hữu Đức E, sinh năm 1966. Nơi cư trú: Số 1115/56 đường V, khóm B 5, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Số 30, đường N A, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang (vắng mặt, đề nghị xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ủy ban nhân dân thành phố L (vắng mặt).

Địa chỉ trụ sở: Số 99, đường N, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

- Ông Võ Thiện P, sinh năm 1981 (vắng mặt).

- Bà Trần Thu K, sinh năm 1977 (vắng mặt).

- Anh Võ Trần Huy B, sinh năm 1999 (vắng mặt).

Cùng cư trú: Số 1115B/56, đường V, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

- Người kháng cáo: Bị đơn - ông Võ Hữu Đức E.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, các lời khai trong suốt quá trình tham gia tố tụng của nguyên đơn - ông Đoàn Văn U và bà Trần Thị Dứa như sau: Trong quá trình tranh chấp đất giữa ông Đoàn Văn U với bà Đoàn Thị T1 tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đã được giải quyết tại các Quyết định giải quyết tranh chấp đất: Quyết định số 323/QĐ.UB ngày 03/12/2001, Quyết định số 03/QĐ.UB ngày 02/01/2002 của Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang; Quyết định số 309/QĐ.UB.KN ngày 27/10/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang. Sau đó ông U, bà D làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến ngày 12/11/2014, ông Đoàn Văn U và bà Trần Thị D đã được Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, diện tích 161,5m2, mục đích sử dụng: đất ở tại đô thị, đất tọa lạc tại phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

Trong quá trình sử dụng đất, ông Võ Hữu Đức E có hành vi xây nhà lấn chiếm toàn bộ lối đi từ đường Võ Văn Hoài vào nhà và đất của ông U, bà D, khi ông Đức E xây nhà lấn chiếm toàn bộ lối đi thì ông U không biết, do ông U đi nơi khác thuê nhà trọ ở, nên ông U không có trực tiếp ở trên căn nhà của ông. Diện tích lối đi có chiều ngang 1,6m, chiều dài 05m, đến khi ông U, bà D biết, phía ông U, bà D có trình báo UBND phường Bình Khánh để giải quyết yêu cầu ông Đức E tháo dỡ nhà, vật kiến trúc trả lại lối đi cho ông U, bà D, nhưng đến nay ông Đức E không trả lại lối đi.

Nay ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Võ Hữu Đức E phải có nghĩa vụ tháo dỡ nhà, vật kiến trúc trả lại lối đi từ đường Võ Văn Hoài vào nhà đất của ông U, bà D có diện tích chiều ngang 1,6m, chiều dài 05m, đất tọa lạc tại đường Võ Văn Hoài, khóm Bình Khánh 5, phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết đã tiến hành định giá, xem xét thẩm định tại chỗ và đo đạc khu đất tranh chấp. Sau khi có kết quả đo đạc hiện trạng khu đất ngày 04/7/2022 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú, ông U, bà D nộp đơn khởi kiện bổ sung, yêu cầu Tòa án giải quyết. Buộc các ông, bà: Võ Hữu Đức E, Võ Thiện P, Trần Thu K và Võ Trần Huy B phải tháo dỡ, di dời, nhà, công trình, vật kiến trúc trên đất trả lại diện tích đất lấn chiếm cho ông U, bà D cụ thể:

+ Buộc ông Võ Hữu Đức E phải tháo dỡ vật kiến trúc trả lại diện tích 3,4m2 tại các điểm 58, 59, 73, 74; Diện tích 3,6m2 tại các điểm 56, 58, 74, 75; Diện tích 1,5m2 tại các điểm 63, 66, 6, 56, 75 và diện tích 0,3m2 tại các điểm 66, 76, 9, 55 thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016.

+ Buộc ông Võ Thiện P, Trần Thu K, Võ Trần Huy B phải tháo dỡ công trình kiến trúc trên phần lối đi trả lại diện tích 9,0m2 tại các điểm 16, 71, 69, 68 và diện tích 0,7m2 tại các điểm 72, 77, 62, 67, 12, 37 thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016.

Theo đơn yêu cầu của bị đơn và các lời khai của ông Nguyễn Thành T là đại diện hợp pháp của bị đơn - ông Võ Hữu Đức E trong quá trình tham gia tố tụng tại cấp sơ thẩm như sau:

Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Võ Thái H (ông nội của Đức E) để lại cho ông Võ Thành Công (cha của Đức E), ông nội và cha của Đức E cho ông Đoàn Văn Đ (ông ngoại của Đức E) và ông Đoàn Văn U (cậu ruột của Đức E) ở nhờ. Do ông U nhiều lần cất nhà bếp, chuồng heo, nhà vệ sinh lấn thêm nên cha ông Đức E không đồng ý nên đã tranh chấp kéo dài nhiều năm.

Vào ngày 03/12/2001, UBND thành phố L, tỉnh An Giang ban hành Quyết định số 323/QĐ.UB về việc giải quyết tranh chấp đất giữa bà Đoàn Thị T1 (mẹ của ông Đức E) và ông Đoàn Văn U. Tại Điều 1 của Quyết định có nội dung: ổn định cho ông Đoàn Văn U sử dụng phần nhà chính với diện tích 135,85m2.

Đến ngày 12/11/2014, ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, diện tích 161,5m2, mục đích sử dụng: đất ở đô thị, đất tọa lạc tại phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có đo đạc, không có ai ký tứ cận, cấp không đúng diện tích thực tế, đã cấp chồng lấn qua phần đất của ông Đức E.

Ông Đức E không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng thời ông Võ Hữu Đức E yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, diện tích 161,5m2, mục đích sử dụng: đất ở đô thị, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 12/11/2014 cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D. Ngoài ra, ông Đức E không có ý kiến nào khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang có Văn bản số 3848/UBND-NC ngày 06/8/2021 trình bày ý kiến như sau:

Ngày 03/12/2001, Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang ban hành Quyết định số 323/QĐ.UB về việc giải quyết tranh chấp đất giữa bà Đoàn Thị T1 và ông Đoàn Văn U. Tại Điều 1 của Quyết định có nội dung: ổn định cho ông Đoàn Văn U sử dụng phần nhà chính (tính tới mí của mái nhà) và đường đi theo họa đồ do Phòng Địa chính lập ngày 03/01/2000; Buộc ông U tháo dỡ các vật kiến trúc khác để trả lại đất cho gia đình bà Đoàn Thị T1 sử dụng.

Ông U khiếu nại Quyết định trên. Ngày 02/01/2002 Quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố L ban hành Quyết định số 03/QĐ.UB về việc giải quyết khiếu nại của ông Đoàn Văn U, với nội dung: Bác đơn của ông Đoàn Văn U. Ông U tiếp tục khiếu nại đến tỉnh.

Ngày 27/10/2003, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 309/QĐ.UB.KN ngày 27/10/2003 giải quyết khiếu nại của ông Đoàn Văn U có nội dung: Công nhận Quyết định số 03/QĐ.UB của Ủy ban nhân dân thành phố L; Bác yêu cầu khiếu nại của ông U.

Ngày 04/4/2006, bà Đoàn Thị T1 được Ủy ban nhân dân thành phố L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H.01676mA, thuộc thửa số 7, tờ Bản đồ số 57, diện tích 2608,8m2 (đất ở đô thị = 300m2, đất trồng cây lâu năm 2308,8m2), tọa lạc tại phường Bình Khánh (diện tích cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T1 đã bị cắt trừ diện tích nhà ở và lối đi vào nhà của ông U theo nội dung Quyết định số 309/QĐ.UB.KN ngày 27/10/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang. Sau đó, bà Đoàn Thị T1 thực hiện thủ tục tách thửa, chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các con, trong đó có ông Võ Hữu Đức E theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H.03009mA ngày 14/11/2006 thuộc thửa số 97, tờ bản đồ số 61, diện tích 104,5m2 mục đích sử dụng: đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên.

Ngày 12/11/2014, ông Đoàn Văn U và bà Trần Thị D được Ủy ban nhân dân thành phố L cấp giấy chứng nhận số CH06016, thuộc thửa số 22, tờ bản đồ số 57, diện tích 161,5m2, mục đích sử dụng: đất ở đô thị, tọa lạc tại phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên.

Việc cấp giấy chứng nhận cho ông Đoàn Văn U và bà Trần Thị D thực hiện đúng quy định tại Điều 21 Quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất và đăng ký biến động sau khi cấp giấy trên địa bàn tỉnh An Giang (Ban hành kèm theo Quyết định số 45/2011/QĐ-UBND ngày 30/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang Ban hành quy định về đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quản lý quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh An Giang).

UBND thành phố L đề nghị vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án các cấp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Võ Thiện P, bà Trần Thu K, và anh Võ Trần Huy B. Trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông P, bà K và Anh B, nhưng ông P, bà K và Anh B đều vắng mặt không lý do, và cũng không có gửi văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn.

Tại bản án dân sự số 50/2022/DS-PT ngày 26 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D.

+ Buộc ông Võ Hữu Đức E phải có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời một phần của các căn nhà số 2, 3, 4, trả lại cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D diện tích 3,4m2 tại các điểm 58, 59, 73, 74; diện tích 3,6m2 tại các điểm 56, 58, 74, 75; diện tích 1,5m2 tại các điểm 63, 66, 6, 56, 75 và diện tích 0,3m2 tại các điểm 66, 76, 9, 55 theo bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/07/2022 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 12/11/2014 cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D.

+ Buộc ông Võ Thiện P, bà Trần Thu K, anh Võ Trần Huy B phải cùng có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời một phần căn nhà số 1 trên phần lối đi trả lại cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D diện tích 9,0m2 tại các điểm 16, 71, 69, 68 và diện tích 0,7m2 tại các điểm 72, 77, 62, 67, 12, 37 theo bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/07/2022 của Công ty TNHH nhà đất Hưng Phú, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 12/11/2014 cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D.

Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/07/2022 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú là một phần không tách rời của bản án.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Võ Hữu Đức E về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, diện tích 161,5m2, mục đích sử dụng: đất ở đô thị, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 12/11/2014 cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm, quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.

Ngày 03/10/2022, bị đơn - ông Võ Hữu Đức E kháng cáo toàn bộ bản án số 50/2022/DS-PT ngày 26 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, người đại diện hợp pháp của bị đơn vắng mặt, có gửi đơn đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt và chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu hủy giấy CNQSDĐ của bị đơn.

Nguyên đơn không kháng cáo, tại phiên tòa phúc thẩm ông U với tư cách là nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền của bà D trình bày không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa. Tại phần tranh luận: Nguyên đơn không tranh luận.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của chủ tọa, Hội đồng xét xử, thư ký, việc chấp hành pháp luật của các đương sự và về nội dung như sau:

+ Về tố tụng: Trong giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Các bên đương sự đã được thực hiện các quyền của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã giải quyết đúng pháp luật, kháng cáo của bị đơn không có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Các đương sự đã được Toà án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa phúc thẩm đến lần thứ hai nhưng chỉ có mặt nguyên đơn. Bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, trong đó có ông Nguyễn Thành T - đại diện theo ủy quyền của bị đơn và đại diện Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang đề nghị xử vắng măt, các đương sự khác vắng mặt không có lý do.

Căn cứ khoản 2 và 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Bị đơn - ông Võ Hữu Đức E yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, diện tích 161,5m, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 12/11/2014 cho nguyên đơn - ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D. Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xác định đây là yêu cầu phản tố là không đúng. Bởi đây chỉ là yêu cầu của bị đơn đề nghị Tòa án xem xét quyết định hành chính của Cơ quan có thẩm quyền, không phải là yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ hoặc loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên thiếu sót này không nghiêm trọng, không ảnh hưởng đến bản chất vụ án. Do đó cấp phúc thẩm điều chỉnh lại cho đúng là : Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bỏ từ “ Phản tố”.

Việc giải quyết hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh theo khoản 4 Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2 ]. Xét kháng cáo của bị đơn đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu hủy giấy CNQSDĐ của bị đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2.1]. Tại Quyết định số 323/QĐ.UB về việc giải quyết tranh chấp đất giữa bà Đoàn Thị T1(mẹ của ông Đức E) và ông Đoàn Văn U ngày 03/12/2001, Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh An đã quyết định: Ổn định cho ông Đoàn Văn U sử dụng phần nhà chính (tính tới mí của mái nhà) và đường đi theo họa đồ do Phòng Địa chính lập ngày 03/01/2000; buộc ông U tháo dỡ các vật kiến trúc khác để trả lại đất cho gia đình bà Đoàn Thị T1 sử dụng. Ông U tiếp tục khiếu nại và đã được Ủy ban nhân dân thành phố L giải quyết bằng Quyết định số 03/QĐ.UB ngày 02/01/2002, Ủy ban nhân dân tỉnh giải quyết bằng Quyết định số 309/QĐ.UB.KN ngày 27/10/2003 bác các khiếu nại của ông Đoàn Văn U, công nhận Quyết định số 03/QĐ.UB của Ủy ban nhân dân thành phố L.

[2.2]. Ngày 04/4/2006, bà Đoàn Thị T1 được Ủy ban nhân dân thành phố L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H.01676Ma đối với diện tích 2608,8m2 (đất ở đô thị = 300m2, đất trồng cây lâu năm 2308,8m2), thuộc thửa số 7, tờ Bản đồ số 57, tọa lạc tại phường Bình Khánh. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà T1 nêu trên đã không công nhận diện tích nhà ở và lối đi vào nhà của ông U theo nội dung Quyết định số 309/QĐ.UB.KN ngày 27/10/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.

[2.3 ]. Sau khi được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, bà Đoàn Thị T1 đã thực hiện thủ tục tách thửa, chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các con, trong đó có ông Võ Hữu Đức E. Ông E cũng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H.03009mA ngày 14/11/2006 đối với diện tích 104,5m2 mục đích sử dụng: đất trồng cây lâu năm, thuộc thửa số 97, tờ bản đồ số 61, tọa lạc tại phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên.

[2.4]. Về phía ông Đoàn Văn U và bà Trần Thị D cũng đã được Ủy ban nhân dân thành phố L cấp giấy chứng nhận số CH06016, ngày 12/11/2014 đối với diện tích 161,5m2, thuộc thửa số 22, tờ bản đồ số 57, mục đích sử dụng: đất ở đô thị, tọa lạc tại phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên.

[2.5]. Theo kết quả Thẩm định tại chỗ của Tòa án cấp sơ thẩm thể hiện hiện: Trên đất có căn nhà của ông U, kết cấu khung sườn gỗ, loại nhà hai mái, lợp ngói, nhà sàn, có thông hành cập bên hông nhà, có mái che mưa, trên lối đi từ nhà ông U ra lộ liên xã (nay là đường Võ Văn Hoài) có căn nhà cất trên lối đi chấn đường đi ra vào nhà ông U, làm cho ông U không có lối đi vào nhà.

[2.6]. Lời khai của ông P tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 11/5/2022 thể hiện ông P cũng thừa nhận căn nhà nằm trên lối đi là nhà của ông P xây dựng và sử dụng, ngoài ra có 3 căn nhà còn lại là do ông Đức E xây dựng và sử dụng. Lời khai trên của ông P cũng phù hợp với lời khai của ông T là người đại diện hợp pháp của ông Đức E trong quá trình giải quyết vụ án, ông T thừa nhận căn nhà số 1 cất trên lối đi là nhà của ông P, các căn nhà số 2, 3, 4, là nhà của ông Đức E.

[ 2.7] Theo kết quả đo đạc tại Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/07/2022 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú thể hiện: Căn nhà số 1: Do ông P sở hữu đã chiếm lối đi diện tích 9,0m tại các điểm 16, 71, 69, 68 và diện tích 0,7m tại các điểm 72, 77, 62, 67, 12, 37 theo bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/07/2022 của Công ty TNHH nhà đất Hưng Phú, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 12/11/2014 cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D.

Căn nhà số 2,3,4: Do ông Đức E sở hữu đã lấn chiếm vô nhà đất ông U diện tích 3,4m tại các điểm 58, 59, 73, 74; Diện tích 3,6m tại các điểm 56, 58, 74, 75; Diện tích 1,5m tại các điểm 63, 66, 6, 56, 75 và diện tích 0,3m tại các điểm 66, 76, 9, 55 theo bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/07/2022 của Công ty TNHH nhà đất Hưng Phú, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 12/11/2014 cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D.

[2.8].Từ những tài liệu, chứng cứ trên, có cơ sở xác định ông Võ Hữu Đức E, ông Võ Thiện P và những người cư ngụ có sử dụng lấn chiếm một phần lối đi vào nhà ông U, bà D. Nên việcc ông Đoàn Văn U và bà Trần Thị D yêu cầu phía bị đơn tháo dỡ công trình phần lấn chiếm, trả lại phần diện tích lấn chiếm lối đi vào nhà ông, bà là có cơ sở.

Bản án sơ thẩm đã xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: buộc ông Võ Hữu Đức E phải tháo dỡ, di dời phần các căn nhà đã lấn chiếm trả lại cho ông U diện tích 3,4m2 tại các điểm 58, 59, 73, 74; diện tích 3,6m tại các điểm 56, 58, 74, 75; diện tích 1,5m tại các điểm 63, 66, 6, 56, 75 và diện tích 0,3m tại các điểm 66, 76, 9, 55 theo bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/7/2022, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016; Buộc ông Võ Thiện P, Trần Thu K, Võ Trần Huy B phải tháo dỡ, di dời căn nhà nằm trên phần lối đi trả lại cho ông U diện tích 9,0m2 tại các điểm 16, 71, 69, 68 và diện tích 0,7m tại các điểm 72, 77, 62, 67, 12, 37 theo bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/7/2022, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016 là đúng pháp luật.

[3]. Đối với yêu cầu của ông Võ Hữu Đức E yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, diện tích 161,5m, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D, thấy rằng: việc Ủy ban nhân dân thành phố L, cấp giấy chứng nhận cho ông Đoàn Văn U và bà Trần Thị D thực hiện đúng quy định tại Điều 21 Quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất và đăng ký biến động sau khi cấp giấy trên địa bàn tỉnh An Giang (Ban hành kèm theo Quyết định số 45/2011/QĐ-UBND ngày 30/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang Ban hành quy định về đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quản lý quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh An Giang), là đúng trình tự thủ tục theo quy định pháp luật. Do đó, án sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu của ông Đức E là hoàn toàn phù hợp.

[4 ]. Bị đơn kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng tại cấp phúc thẩm không cung cấp được thêm bất cứ tài liệu, chứng cứ nào chứng minh. Như đã phân tích trên, bản án sơ thẩm đã giải quyết đúng pháp luật nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về nội dung.

[ 5 ]. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với chứng cứ, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

[ 6 ]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[ 7 ]. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 158, Điều 164, Điều 166 Điều 274 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 166, Điều 203 của Luật đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn – ông Võ Hữu Đức E.

2. Giữ nguyên bản án Dân sự sơ thẩm số 50/2022/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang về nội dung.

2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D.

+ Buộc ông Võ Hữu Đức E phải có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời một phần của các căn nhà số 2, 3, 4, trả lại cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D diện tích 3,4m2 tại các điểm 58, 59, 73, 74; diện tích 3,6m2 tại các điểm 56, 58, 74, 75; diện tích 1,5m2 tại các điểm 63, 66, 6, 56, 75 và diện tích 0,3m2 tại các điểm 66, 76, 9, 55 theo bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/07/2022 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 12/11/2014 cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D.

+ Buộc ông Võ Thiện P, bà Trần Thu K, anh Võ Trần Huy B phải cùng có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời một phần căn nhà số 1 trên phần lối đi trả lại cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D diện tích 9,0m2 tại các điểm 16, 71, 69, 68 và diện tích 0,7m2 tại các điểm 72, 77, 62, 67, 12, 37 theo bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/07/2022 của Công ty TNHH nhà đất Hưng Phú, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 12/11/2014 cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D.

Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 04/07/2022 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú là một phần không tách rời của bản án.

2.2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Võ Hữu Đức E về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CH06016, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 57, diện tích 161,5m2, mục đích sử dụng: đất ở đô thị, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 12/11/2014 cho ông Đoàn Văn U, bà Trần Thị D.

2.3. Về chi phí tố tụng: Ông U, bà D tự nguyện chịu toàn bộ chi phí tố tụng là 7.184.000 đồng, ông U, bà D đã nộp xong.

2.4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Ông Đức E phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005143 ngày 21/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên.

+ Ông P, bà K và Anh B cùng có nghĩa vụ liên đới phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3. Án phí dân sự phúc thẩm:

Bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được khấu trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp tại biên lai thu số 0000338 ngày 19/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất; lối đi và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 166/2023/DS-PT

Số hiệu:166/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về