Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và huỷ GCNQSDĐ số 229/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 229/2022/DS-PT NGÀY 28/09/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HUỶ GCNQSD ĐẤT

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 107/2022/TLPT-DS ngày 29 tháng 6 năm 2022 về: “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2022/DS-ST ngày 21/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2267/2022/QĐ-PT ngày 16 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Vợ chồng ông Nguyễn C - sinh năm 1940 (chết ngày 03/5/2018), bà Đỗ Thị C1 - sinh năm 1934 (chết ngày 17/10/2019);

Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng đồng thời là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án gồm 09 người con:

- Ông Nguyễn Văn T - sinh năm 1968; có mặt.

- Ông Nguyễn Văn X - sinh năm 1974;

- Bà Nguyễn Thị L - sinh năm 1971;

- Bà Nguyễn Thị H - sinh năm 1976;

- Ông Nguyễn Văn B - sinh năm 1978;

- Bà Nguyễn Thị L1- sinh năm 1980;

- Ông Nguyễn Văn L2 - sinh năm 1983;

- Ông Nguyễn Văn L3 - sinh năm 1986;

Đều cùng trú tại: Thôn V, xã X2, thị xã S, tỉnh Phú Yên.

- Bà Nguyễn Thị X1 - sinh năm 1990; Trú tại: Khu phố P, phường X3, thị xã S, tỉnh Phú Yên.

Người đại diện uỷ quyền của các ông (bà) L, X, H, B, L1, L2, X1, L3: Ông Nguyễn Văn T - sinh năm 1968; Trú tại: thôn V, xã X2, thị xã S, tỉnh Phú Yên (Giấy ủy quyền và Hợp đồng ủy quyền ký ngày 04/10/2021) ; có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hương Q - Luật sư Công ty Luật TNHH MTV P1, Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên; có mặt.

2. Bị đơn: Bà Vương Thị Kim X4 - sinh năm 1940; có mặt. Trú tại: Thôn V, xã X2, thị xã S, tỉnh Phú Yên.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn gồm có:

- Bà Vương Thị Kim A - sinh năm 1949; Tạm trú: Hội thánh Cao Đài C3, thị trấn T1, huyện H1, tỉnh Bình Định; có mặt.

- Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1996 ; địa chỉ : 99 đường N, quận H2, thành phố Đà Nẵng; có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Lê Văn C4 (có mặt) và luật sư Trần Thị H3 (vắng mặt) – Công ty Luật hợp danh F, Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng ; địa chỉ: 99 đường N, quận H2, thành phố Đà Nẵng.

3. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

- Ủy ban nhân dân thị xã S, tỉnh Phú Yên ; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Ngọc T3, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã S, vắng mặt.

- Ủy ban nhân dân xã X2, thị xã S, tỉnh Phú Yên.

- Bà Vương Thị Kim A - sinh năm 1949; địa chỉ tại: 1625 Conley Rd# 193 Conley, GA, 30288, USA; Tạm trú: Hội thánh Cao Đài C3, thị trấn T1, huyện H1, tỉnh Bình Định; có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bà A: Ông Ngô Minh T4 - Luật sư Văn phòng Luật sư Y, Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên; có mặt.

4. Người kháng cáo: Bị đơn bà Vương Thị Kim X4 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Vương Thị Kim A; đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Nội dung vụ án được tóm tắc theo trình bày của các đương sự :

- Theo đơn khởi kiện ngày 26/8/2013, các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, quá trình tố tụng, nguyên đơn vợ chồng ông Nguyễn C (chết ngày 03/5/2018), bà Đỗ Thị C1 (chết ngày 17/10/2019), hiện nay do những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn cùng trình bày:

Năm 1985, nguyên đơn vợ chồng ông C, bà C1 có khai khẩn một diện tích đất tại thôn V, xã X2, thị xã S, tỉnh Phú Yên. Năm 2007, nguyên đơn viết giấy tay chuyển nhượng cho bị đơn bà X4 diện tích đất dài 80m x rộng 25m = 2000m2 có giới cận: Đông cận đất Nguyễn Văn Th; Tây cận đất Đỗ Thanh Ng;

Nam cận biển trước V; Bắc cận đất Nguyễn C còn lại. Vì giấy mua bán viết tay nên không làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho bà X4 được nên vào năm 2009, nguyên đơn kê khai và được UBND huyện (nay là thị xã) S cấp GCNQSDĐ số AO754475 ngày 17/6/2009 với diện tích là 2.063m2. Đến ngày 23/10/2009, hai bên lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (HĐCNQSDĐ) có chứng thực của UBND xã X2, so với diện tích chuyển nhượng thừa ra 63m2 nhưng nguyên đơn đồng ý giao cho bà X4 là 2.063m2 theo GCNQSDĐ được cấp.

Sau khi nhận chuyển nhượng, bị đơn đã làm hàng rào trên diện tích đất qua đo đạc thực tế là 4.528,5m2 nên đã lấn chiếm của nguyên đơn 2.465,5m2, nằm trong diện tích đất 6.390m2 đã được nhà nước cấp cho nguyên đơn năm 1997 liền kề diện tích đã chuyển nhượng cho bà X4. Do đó, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại diện tích đất 2.465,5m2 đã lấn chiếm và các cây trồng trên đất.

- Theo các văn bản đề ngày 20/4/2014, ngày 13/6/2014, ngày 29/01/2019, đơn phản tố đề ngày 04/4/2019, bị đơn bà Vương Thị Kim X4 và bà Vương Thị Kim A thống nhất trình bày:

Tháng 6/2007, bị đơn mua của vợ chồng Đỗ Thanh Ng, Nguyễn Thị L5 vườn dừa chiều ngang 60 thước tây, chiều dài từ hàng dừa của ông bà ra tới biển giá 2.500.000đ/1 thước tây chiều ngang, tổng số tiền 150.000.000đ. Tháng 7/2007, bị đơn mua lại 15 cây dừa của Nguyễn Thị L (con gái của nguyên đơn) đang trồng trên đất của nguyên đơn giá 15.000.000đ, sau đó mua đất vườn của nguyên đơn chiều ngang 80 thước tây, chiều dài từ cây đào phía trong hàng rào ra tới biển, giá 2.700.000đ/thước tây, tổng số tiền là 216.000.000đ, hàng rào của nguyên đơn là 50 trụ xi măng và quấn 03 tầng dây thép, có vị trí, giới cận: Đông giáp đất bà Trần Thị D (tên thường gọi là bà Tr1); Tây giáp đất Đỗ Thanh Ng; Nam giáp biển đông; Bắc giáp đất còn lại của ông Nguyễn C, bà Đỗ Thị C1.

Sau khi nhận chuyển nhượng, các bên tiến hành đo đất có địa chính xã, vợ chồng nguyên đơn và con trai Nguyễn Văn T. Tháng 8/2007, bị đơn cho dỡ bỏ hàng rào của nguyên đơn, mua vật liệu tập kết tại nhà ông T và làm hàng rào mới hơn 01 tháng, cả gia đình nguyên đơn đều biết. Đến lúc nguyên đơn làm Sổ đỏ giao lại cho bị đơn thấy diện tích đất chỉ còn 2.063m2, bị đơn hỏi thì nguyên đơn nói không biết nhưng đất đã bán đúng giới cận, còn địa phương thì nói sổ đỏ chính của nguyên đơn là 8.063m2 nhưng do 06 người con của nguyên đơn chiếm hết 6.000m2 nên chỉ còn lại 2.063m2 để cắt đất cho bị đơn. Năm 2013, nguyên đơn cho rào phần đất giáp biển đã bán cho bị đơn. Do đó, bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu công nhận toàn bộ diện tích đất qua đo đạc thực tế là 4.528,5m2 thuộc quyền sử dụng của bị đơn, yêu cầu hủy một phần GCNQSDĐ số G675583 do UBND thị xã S cấp ngày 13/10/1997 cho hộ ông Nguyễn C đối với diện tích 2.465,5m2 đã chuyển nhượng cho bị đơn.

- UBND xã X2 tại Công văn số 383/UBND ngày 09/4/2021:

Năm 1997, ông Nguyễn C được UBND huyện (nay là thị xã) S cấp GCNQSDĐ số G675583 thửa đất số 211, tờ số 09-299.TTg diện tích 240m2(T), và thửa đất số 11, tờ số 09-299.TTg diện tích 6.135m2(Q). Năm 2009, ông Nguyễn C, bà Đỗ Thị C1 được UBND thị xã S cấp GCNQSDĐ số AO754475 thửa đất số 20-1, tờ bản đồ số 31, diện tích 2.063m2(CLN). Theo phương án giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp của UBND xã X2 đã được phê duyệt, thì loại đất ở và đất trồng cây lâu năm không phải là loại đất đưa vào cân đối để giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp. Như vậy, GCNQSDĐ số AO 754475 cấp cho ông C, bà C1 và GCNQSDĐ số G675583 cấp cho hộ ông C không thuộc trường hợp cân đối giao đất theo phương án đã được duyệt. Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ số G675583, gia đình ông C, bà C1 gồm các thành viên: ông C, bà C1, các con là các ông bà Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn X, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn B, Nguyễn Thị L1, Nguyễn Văn L2, Nguyễn Văn L3, Nguyễn Thị X1.

- UBND thị xã S tại Công văn số 209/UBND ngày 05/02/2016:

Trên cơ sở HĐCNQSDĐ giữa vợ chồng ông C với bà X4 được UBND xã X2 chứng thực ngày 23/10/2009 đối với diện tích 2.063m2, tại thửa đất số 20-1, tờ bản đồ 31-ĐC, loại đất trồng cây lâu năm, địa chỉ tại thôn V, xã X2. Văn phòng đăng ký QSDĐ tham mưu cho UBND thị xã S cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BA933061 ngày 11/2/2021 cho bà X4 với diện tích 2.063m2. Việc cấp giấy chứng nhận này đúng trình tự, thủ tục và đúng quy định của pháp luật đất đai. Theo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015) của thị xã S được UBND tỉnh Phú Yên phê duyệt tại quyết định số 1377/QĐ-UBND ngày 15/8/2013 thì vị trí thửa đất đang tranh chấp được quy hoạch theo hiện trạng sử dụng đất, loại đất trồng cây lâu năm.

- Bà Vương Thị Kim A trình bày tại biên bản ghi lời khai ngày 11/3/2015 và ngày 12/12/2017: Bà A ở nước ngoài gửi tiền về nhờ bà X4 mua đất của ông C, bà C1. Bà X4 trao đổi với bà là mua đất bề ngang 81m, rộng 40m giá 2.700.000đ/m, tính tiền 80m, còn 1m làm đường đi phía Bắc giáp bà Tr1 có giới cận: Đông giáp đất Đỗ Thanh Ng, Tây giáp biển trước, Nam giáp nhà Nguyễn Văn T, Bắc giáp đất bà Tr1; ngoài ra còn mua thêm của Nguyễn Thị L (con bà C1) diện tích đất có 15 cây dừa của bà C1 cho bà L để cho liền ranh giới, tiền mua đất của bà C1 và L là 231.000.000 đồng giao hết cho bà C1. Việc mua bán các bên làm giấy tay, vợ chồng ông C, bà C1 cùng các con ký xác nhận và hai bên đã giao nhận tiền đủ. Vợ chồng ông C cam đoan sẽ làm GCNQSDĐ cho bà X4 đầy đủ. Sau khi hai bên chuyển nhượng đã yêu cầu địa chính xã X2 lúc đó là ông Trần Thanh V1 xuống xác định ranh giới, vị trí cắm mốc đo đạc, có mặt các thành viên trong gia đình ông C, người dân xem việc đo đất. Bà X4 đã xây hàng rào hết diện tích mua của ông Ngọc, vợ chồng ông C, chị L; dừa trên đất có 90 cây thì bà X4 đã thuê ông Ngọc thu hoạch từ đó đến nay không ai có ý kiến gì. Sau khi mua bán đất bà X4 nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông C làm GCNQSDĐ đối với diện tích đất trên nhưng cứ hẹn. Đến năm 2010 vợ chồng ông C yêu cầu bà X4 đưa giấy mua bán viết tay để đi làm GCNQSDĐ, bà X4 tin tưởng nên đưa. Đến tháng năm nào không nhớ vợ chồng ông C có đưa cho bà X4 một HĐCNQSDĐ để ký vào với diện tích đất 2.063m2, bà X4 có hỏi thì vợ chồng ông C nói địa chính chỉ làm được diện tích này, diện tích còn lại từ từ làm sau và sẽ tiếp tục chuyển cho bà. Bà tin tưởng nên cũng không lo lắng gì, vì đất đã rào kiên cố, từ đó đến nay không ai tranh chấp. Đề nghị Tòa án xem xét bảo vệ quyền lợi cho bà X4 và cho bà A.

[2] Tại bản án dân sự sơ thẩm số 11/2022/DS-ST ngày 21/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:

Căn cứ Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.

Áp dụng Điều 697 Bộ luật Dân sự 2005; Điều 500 – 503, Điều 166, Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 166, Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Điều 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn C (chết 2018), Đỗ Thị C1 (chết 2019) có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn gồm các ông bà Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn X, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn B, Nguyễn Thị L1, Nguyễn Văn L2, Nguyễn Văn L3, Nguyễn Thị X1. Buộc bị đơn Vương Thị Kim X4 trả cho những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn diện tích đất 2.465,5m2 thuộc thửa số 11, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại thôn V, xã X2, thị xã S, Phú Yên (Theo Mảnh trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 01/2021 ký ngày 11/01/2021 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên thực hiện) gắn vị trí: Hướng đông giáp đất ông Nguyễn Văn Th, hướng Tây giáp đất ông Đỗ Thanh Ng (nay là bà Vương Thị Kim X4), hướng Nam giáp bà Vương Thị Kim X4, hướng Bắc giáp ông Nguyễn Văn T, Nguyễn C, Đỗ Thị C1, trên đất có 40 cây dừa, 02 cây điều, 05 cây dương, 01 tường lưới B40 móng đá 83,6m, cao 1,8m. Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn phải thanh toán cho bị đơn giá trị hàng rào là 2.427.744đ (Hai triệu bốn trăm hai mươi bảy nghìn bảy trăm bốn mươi bốn đồng).

- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Vương Thị Kim X4 về việc công nhận diện tích đất 2.465,5m2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà do đã nhận chuyển nhượng và hủy một phần GCNQSDĐ số G 675583 đứng tên hộ ông C được UBND huyện S cấp GCNQSDĐ ngày 13/10/1997 đối với thửa đất số 211, thửa số 11, tờ bản đồ địa chính 9/TTg.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.

[3] Kháng cáo:

Ngày 25-4-2022 bà Vương Thị Kim A và bà Vương Thị Kim X4 kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bà Vương Thị Kim X4 và bà Vương Thị Kim A giữ nguyên kháng cáo; cho rằng phần diện tích đất 2.465,5m2 là ông C bà C1 đã hứa (miệng) cho vợ chồng bà Nguyễn Thị L, trên đất có 15 cây Dừa nên vào ngày 07-7-2007 bà L viết giấy chuyển nhượng đất với giá 15.000.000 đồng, diện tích đất có tứ cận: Nam cận ông Đỗ Thanh Ng, đông cận ông Nguyễn C, tây cận biển, bắc cận đất bà C1. Bà X4 đã nhận đất, xây dựng hàng rào bê tông kiên cố bao quanh phần đất đã mua và quản lý sử dụng liên tục từ năm 2007 đến nay. Khi xây dựng hàng rào thì không ai ngăn cản.

Đại diện Viện kiểm sát cấp cao Đà Nẵng tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận các kháng cáo, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại quyền sử dụng đất đã lấn chiếm diện tích là 2.465,5m2; bị đơn cho rằng đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nguyên đơn tổng cộng là 4.528,5m2 từ năm 2007 (gồm 2.063m2 + 2.465,5m2 ) nên phản tố yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn do đã được nhận chuyển nhượng hợp pháp và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND thị xã S cấp cho nguyên đơn đối với diện tích đất đang tranh chấp.

[3] Xem xét nguồn gốc và quá trình sử dụng đất Theo hồ sơ địa chính của xã X2, tại Sổ dã ngoại ghi ông Nguyễn C có quyền sử dụng đất tại tờ bản đồ số 9, thửa số 11 diện tích 7.190m2 loại đất Bãi Dương (bản đồ thể hiện tại mảnh 09-299 đo đạc năm 1994) và thửa 211 diện tích 240m2 loại đất T (BL455-458). UBND huyện (nay là thị xã) S đã cấp GCNQSDĐ số G675583 ngày 13/10/1997 cho hộ ông Nguyễn C diện tích đất 6.390m2 tại xã X2, huyện S gồm: thửa đất số 211, tờ số 09, diện tích 240m2, loại đất (T) và thửa đất số 11, tờ bản đồ số 09, diện tích 6.150m2, loại đất (Q).

Ngoài diện tích đất nêu trên, thì vào năm 1985, vợ chồng ông Nguyễn C, bà Đỗ Thị C1 đã khai khẩn thêm diện tích đất liền kề thửa đất số 20 (đo năm 2003), lập vườn trồng cây lâu năm. Năm 2009, vợ chồng bà kê khai được UBND thị xã S công nhận cấp GCNQSDĐ số AO754475 ngày 17/6/2009 thửa số 20-1, tờ bản đồ 31-ĐC, diện tích 2.063m2. Ngày 23/10/2009, vợ chồng ông C, bà C1 và bà X4 lập HĐCNQSDĐ đối với diện tích đất nói trên, Hợp đồng này được UBND xã X2 chứng thực số 21 quyển số 01 TP/CC-SCT HĐGD, ngày 11/02/2010, bà X4 đã được UBND thị xã S cấp GCNQSDĐ số BA993061.

Theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 01/2021 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên thực hiện ngày 11/01/2021, diện tích đất hiện nay các bên tranh chấp là 2.465,5m2 nằm trong tổng diện tích 6.150m2 thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ số 09 (theo GCNQSDĐ số G675583 ngày 13/10/1997 do UBND huyện S cấp cho ông C bà C1. Như vậy, phần diện tích đất 2.465,5m2 thì ông C bà C1 đã được nhà nước cấp Giấy chứng nhận QSD đất từ năm 1997 đến nay, không cùng một thửa với diện tích 2.063 m2.

Nguyên đơn xác định chỉ chuyển nhượng cho bên bị đơn diện tích đất 2000m2 vào năm 2007 nhưng do khi đó chưa có Giấy chứng nhận QSD đất; đến năm 2009, sau khi đã làm được Giấy chứng nhận QSD đất thì lập Hợp đồng chuyển nhượng theo quy định để chuyển nhượng cho bị đơn diện tích 2.063 m2 (khi làm bản vẽ để cấp Giấy chứng nhận QSD đất thì diện tích thực tế tăng lên 2.063 m2 ) là xong. Bị đơn cho rằng đã nhận chuyển nhượng của bị đơn diện tích đất 4.528,5m2 từ năm 2007. Như vậy, việc chuyển nhượng diện tích đất 2.063 m2 đã xong, các bên tranh chấp phần diện tích đất còn lại là 2.465,5m2.

[4] Xem xét kháng cáo về nội dung công nhận quyền sử dụng 2.465,5m2 đất của bị đơn.

Bị đơn cho rằng đã nhận chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất4.528,5m2 (2.063m2 + 2.465,5m2) từ năm 2007, hai bên lập giấy viết tay, thỏa thuận chuyển nhượng 80 thước ngang, sâu 40m với giá 216.000.000 đồng. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án đến nay không có giấy chuyển nhượng đất viết tay nêu trên, mà chỉ tồn tại Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất, được chứng thực ngày 23-10-2009 đối với diện tích đất 2.063 m2 .

Kháng cáo cho rằng phần diện tích đất 2.465,5m2 thực chất là ông C bà C1 đã hứa (miệng) cho vợ chồng bà Nguyễn Thị L, trên đất có 15 cây Dừa nên vào ngày 07-7-2007 bà L viết giấy chuyển nhượng đất với giá 15.000.000 đồng và có hướng cận biển. Tuy nhiên thửa đất này ông C bà C1 đã có Giấy chứng nhận QSD đất từ năm 1997, nên thủ tục tặng cho đất phải bảo đảm theo pháp luật thì bà L mới có quyền chuyển nhượng. Bà L trình bày tại văn bản ngày 27-9-2022 rằng phần đất mà cha mẹ hứa sẽ cho nằm trên phần diện tích 2063m2, trên đó có 15 cây Dừa, nên bà X4 mới trả 15.000.000 đồng bao gồm cả Dừa, thì bà mới đồng ý, không để xảy ra tranh chấp. Thực tế thửa đất 2063m2 thì mới có hướng giáp biển, còn thửa đất 2.465,5m2 không giáp biển; như vậy trình bày của bà L là hợp lý hơn. Còn tranh luận của người kháng cáo cho rằng phần đất bà L chuyển nhượng là diện tích đất 2.465,5m2 là không hợp lý vì phần diện tích đất này không có giáp biển.

Đối với nội dung cho rằng bên nguyên đơn đã bàn giao đất nên bà X4 đã xây dựng hàng rào bê tông kiên cố bao quanh toàn bộ khu đất chuyển nhượng. Nhưng thực tế bị đơn không phải đã làm hàng rào bao quanh khu đất chuyển nhượng mà chỉ có 83,6m; còn ở hướng giáp biển thì do bà C1 đúc trụ bê tông làm hàng rào; sự việc này do bà X4 nêu tại Đơn trình bày sự việc ngày 13-4- 2014 (Bl 15,16). Diễn biến quá trình tranh chấp từ khi được giải quyết từ đầu ở UBND cấp xã cho thấy ý chí của bên nguyên đơn là chỉ chuyển nhượng diện tích đất khoảng 2.000m2. Do đó, ý kiến bên bị đơn cho rằng bên bà C1 ông C bàn giao toàn bộ diện tích đất hơn 4000m2 là không đúng với ý chí của người chuyển nhượng. Việc bà X4 xây dựng 83,6m trên phần đất 2.465,5m2 là do khi đó bà C1 không có mặt tại địa phương. Ông T tuy ở gần nhưng ông cho rằng việc mua bán đất là giữa cha mẹ ông với bà X4 nên để tự giải quyết, còn ông T vừa là con bà C1 và cháu bà X4 nên không có ý kiến gì (BL97). Ông T cũng xác định chỉ mẹ ông là bà C1 chỉ chuyển nhượng diện tích đất khoảng 2000m2, đến nay đã làm Sổ đỏ cho bà X4 xong.

Bên bị đơn cho rằng đã quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích đất nhận chuyển nhượng từ năm 2007; tuy nhiên hiện trên đất ngoài một số cây Dừa thì chỉ có các loại cây tạp và dây leo mọc tự nhiên. Về số cây Dừa trên đất tranh chấp thì vào ngày 21-4-2012 (Bl 02) bà Đỗ Thị C1 đã làm đơn báo cáo đề nghị chính quyền giải quyết tranh chấp; thể hiện việc vào thời điểm đó bà C1 đã xác định diện đất tranh chấp và một số cây Dừa trên đất vẫn là của Bà, khi thấy người khác thu hoạch trái Dừa đã ngăn cản, sau đó đã yêu cầu chính quyền giải quyết.

Hơn nữa, người kháng cáo cho rằng đã nhận chuyển nhượng của bên nguyên đơn diện tích hơn 4000m2, nhưng khi ký kết Hợp đồng chuyển nhượng vào năm 2009 và nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên mình vào năm 2010 chỉ với diện tích 2063m2 lại không có khiếu nại, khởi kiện hoặc ít ra cũng yêu cầu bên chuyển nhượng ghi giấy xác nhận diện tích chuyển nhượng còn thiếu. Trong vụ án này, bà C1 là người có đơn báo cáo chính quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp từ năm 2012 và khởi kiện từ năm 2013.

Lời khai của ông Trần Thanh V1 và một số người làm chứng khác của bị đơn đều không có cơ sở khách quan, bởi vì không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện bút tích để xác định những người này đã tham gia trực tiếp vào thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích hơn 4000m2 giữa vợ chồng ông C bà C1 với bà X4 vào năm 2007. Hồ sơ vụ án chỉ có Biên bản kiểm tra hiện trạng sử dụng đất (BL124, 208) có đầy đủ chữ ký của những người liên quan, của hai bên ký kết hợp đồng, do chính quyền xã X2 lập trước khi xem xét chứng thực Hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất 2063m2.

Từ những nhận định trên, cho thấy vào năm 2007 giữa vợ chồng ông C bà C1 với bà X4 có trao đổi thỏa thuận việc chuyển nhượng đất đai; đến ngày 23- 10-2010 thì hai bên tiến hành xác lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đúng quy định pháp luật và đến ngày 11-02-2010 thì hợp đồng chuyển nhượng hoàn thành do bên nhận chuyển nhượng đã nhận được đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích là 2063m2.

[4] Đối với yêu cầu hủy một phần GCNQSDĐ số G 675583 ngày 13/10/1997 được UBND huyện S cấp cho hộ ông C với diện tích đất 6.150m2 thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ địa chính 09 thì thấy rằng do không có cơ sở để xác định ông C, bà C1 đã chuyển nhượng diện tích 2.465,5m2 nằm trong diện tích 6.150m2 nên không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà X4, bà A nên không có cơ sở xem xét chấp nhận yêu cầu hủy này. Việc bà X4 đã rào diện tích đất tranh chấp bằng hàng rào lưới B40, móng đá dài 83,6m, cao 1,8m (Theo biên bản định giá tài sản ngày 18/11/2014 (BL56) và biên bản thẩm định tại chỗ, định giá tài sản ngày 25/12/2020 (BL423)) là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp và bà C1 ông C đã khiếu nại, khởi kiện đến các cơ quan chức năng, được Tòa án xét xử chấp nhận yêu cầu của ông C bà C1.

[5] Bản án sơ thẩm đã xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ, từ đó chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả lại toàn bộ diện tích đất đã lấn chiếm 2.465,5m2; không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn là có cơ sở. Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên quyết định của bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên..

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: nhưng người kháng cáo đều thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn nộp án phí theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận các kháng cáo của bà Vương Thị Kim X4 và kháng cáo của bà Vương Thị Kim A, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2022/DS-ST ngày 21-4- 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

2. Về án phí dân sự phúc thẩm:

- Bà Vương Thị Kim X4 được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm, nên được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng tại Biên lai số 0000232 ngày 27-4-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

- Bà Vương Thị Kim A được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm, nên được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng tại Biên lai số 0000233 ngày 27-4-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và huỷ GCNQSDĐ số 229/2022/DS-PT

Số hiệu:229/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về