Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất (chiếm đất cho ở nhờ) số 450/2023/DS-PT

 TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 450/2023/DS-PT NGÀY 17/07/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 11 và 17/7/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 36/2023/TLPT- DS ngày 06 tháng 02 năm 2023 về việc “Tranh chấp đòi lại QSDĐ và tài sản trên đất, bồi thường thiệt hại do chậm giao đất và tài sản trên đất; hợp đồng vay tài sản; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho QSDĐ và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 69/2022/DS-ST ngày 24 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1355/2023/QĐ-PT ngày 29/5/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lương Thị A, sinh năm 1963 (có mặt).

Cư trú tại: Số A, đường D, Khóm H, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. 2. Bị đơn: Bà Thạch Thị H, sinh năm 1965 (vắng mặt).

Cư trú tại: Số B, đường D, Khóm E, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Người đại diện theo ủy quyền của bà H: Ông Danh S, sinh năm 1987 (có mặt). Cư trú tại: Số B, đường D, Khóm H, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của của đơn: Luật sư Võ Tuấn H1 – Văn phòng L, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh S (vắng mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S. Địa chỉ: Số A đường H, Phường F, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Người đại diện theo ủy quyền của Sở T2: Ông Nguyễn Văn Đ, Giám đốc Văn phòng Đ1 (vắng mặt) 3.2. Bà Trần Thị Khánh H2, sinh năm 1994; cư trú tại: Số nhà A, đường D, Khóm H, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

3.3. Ông Danh S, sinh năm 1987; cư trú tại: Số B, đường D, Khóm H, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

3.4. Ông Danh S1, sinh năm 1990; cư trú tại: Số B, đường D, Khóm E, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. 3.5. Ông Danh P, sinh năm 2001; đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Số nhà B, đường D, Khóm E, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Địa chỉ tạm trú: Số G tỉnh lộ 43, thị xã T, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

3.6. Bà Danh Thị H3, sinh năm 1992; đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Số B, đường D, Khóm E, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. 3.7. Bà Thạch Thị S2, cư trú tại: Số B, đường L, Khóm E, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

3.8. Bà Kim Thị R (N), sinh năm 1985.

3.9. Cháu Danh Thị Ngọc T, sinh năm 2007 và cháu Danh Thị Ngọc M, sinh năm 2010. Người giám hộ cho cháu T, cháu M: ông Danh S và bà Kim Thị R. Cùng cư trú tại số B, đường D, Khóm H, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Ông Danh S1, bà Danh Thị H3, bà Thạch Thị S2 và bà Kim Thị R ủy quyền cho ông Danh S (có mặt).

3.10. Văn phòng C (nay là Văn phòng C1), Người đại diện theo pháp luật: ông Trần Văn N1, địa chỉ: Số B, Quốc lộ A, Khóm A, Phường G, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

4. Người kháng cáo: Bị đơn bà Thạch Thị H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Lương Thị A trình bày:

Ngày 09/3/2016, ông Lâm N2 (đã chết vào tháng 6/2017) và vợ là bà Thạch Thị H đã thỏa thuận sang nhượng đất và tài sản trên đất cho con của tôi là Trần Thị Khánh H2, việc chuyển nhượng đất và tài sản trên đất theo đúng quy định của pháp luật, cụ thể bên mua và bán đã cùng đi làm thủ tục chuyển nhượng vào ngày 11/3/2016, ông N2 và bà H đã giao đất cho bà sử dụng, bà đã nhận đất, sang lắp mặt bằng chuẩn bị xây nhà, ông N2 và bà H đã xin ở nhờ căn nhà tol xi măng, cột đúc cũ để có thời gian xây dựng nhà mới. Do chưa sử dụng tôi đã chấp thuận cho gia đình ông N2, bà H ở nhờ căn nhà tối đa hai năm, hạn chót là ngày 12/3/2018 phải chuyển đi nơi khác trả lại nhà cho tôi sử dụng, nhưng đã quá thời hạn thỏa thuận mà gia đình bà H không trả lại đất và tài sản trên đất cho tôi.

Nay tôi yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết: Buộc bà Thạch Thị H phải có trách nhiệm trả lại toàn bộ quyền sử dụng đất và các tài sản khác gắn liền với đất đối với phần đất có diện tích 238,9m2, thuộc thửa số 26, tờ bản đồ số 36, tọa lạc tại số B, đường D, khóam E, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng và buộc bà Thạch Thị H trả lại tài sản trên đất là 01 căn nhà có diện tích khoảng 40m2, mái tol xi măng, cột đúc cũ. Đồng thời, yêu cầu bà Thạch Thị H phải bồi thường thiệt hại do việc chậm giao đất và tài sản trên đất cho bà số tiền là 2.000.000 đồng/tháng, tạm tính từ ngày 14/3/2018 đến ngày 14/5/2018 là 02 tháng, số tiền là 4.000.000 đồng.

Đối với yêu cầu phản tố của bà H thì tôi không đồng ý, hợp đồng vay tiền ông N2, bà H đã trả tiền đến ngày 09/3/2016, việc trả tiền sang nhượng đất từ việc thanh lý hợp đồng vay số tiền 450.000.000 đồng trước đó và bà cho ông N2, bà H vay mượn 100.000.000 đồng để đóng tiền thuế chuyển mục đích sử dụng đất, nên đến ngày ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ tôi chỉ đưa thêm cho ông N2, bà H số tiền 50.000.000 đồng, con gái tôi tên Khánh H2 không có trả tiền chuyển nhượng đất cho ông N2, bà H, vì tôi chuyển nhượng đất rồi cho con gái đứng tên.

Tại phiên tòa bà Lương Thị A xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc bà Thạch Thị H phải bồi thường thiệt hại do việc chậm giao đất và tài sản trên đất số tiền là 2.000.000 đồng/tháng, tạm tính từ ngày 14/3/2018 đến ngày 14/5/2018 là 02 tháng, số tiền là 4.000.000 đồng.

- Theo đơn phản tố đề ngày 19/12/2018, bị đơn bà Thạch Thị H trình bày:

Vào khoảng đầu năm 2014, bà và chồng tên ông Lâm N2 (đã chết năm 2017) trước đây tên là Danh Oanh N3 có vay tiền của ông N4 là chủ quán Đ2 ở đường D số tiền 70.000.000 đồng và có đưa Giấy chứng nhận nhà đất cho ông N giữ, vay được vài tháng thì bà Lương Thị A đứng ra trả 70.000.000 đồng cho ông N4 để chồng bà vay lại của bà Á, còn lãi bao nhiêu thì bà không biết vì bà Á chỉ nói với chồng bà và bà Á giữ luôn giấy tờ nhà đất từ ông N4 giao lại. Khoảng 1, 2 tháng sau thì số nợ vay của bà Á lên đến 100.000.000 đồng (cả vốn và lãi), buộc gia đình bà phải dọn đi trả nhà cho bà Á và bà Á sẽ hỗ trợ số tiền 30.000.000 đồng, bà nói với bà Á bà thiếu tiền vay thì bà bán nhà để trả, lúc này bà Á mới nói vợ chồng bà đã bán nhà cho bà Á nên bà mới biết.

Sau này bà mới biết bà Á cho vợ chồng bà vay với lãi suất từ 10% đến 15%/tháng tùy theo đợt, chồng bà còn cất giữ các giấy vay nợ gồm: Giấy nhận nợ ngày 01/7/2015 với số tiền là 390.000.000 đồng, lãi suất 15%/tháng; giấy xác nhận ngày 08/10/2015 với số tiền vay là 450.000.000 đồng, lãi suất 10%/tháng; giấy nhận nợ ngày 01/12/2015 xác định còn thiếu bà Á 480.000.000 đồng; dần dần số nợ ngày càng cao vì bà Á tính lãi chồng lên vốn nên vợ chồng bà không trả nổi tính đến ngày 11/3/2016 thì lên đến 600.000.000 đồng nên bà Á đã lợi dụng vợ chồng bà dân tộc khmer không rành pháp luật, bà không biết chữ, còn chồng bà không rành chữ việt nên đã kêu vợ chồng bà đến Văn phòng C nói là để ký giấy vay tiền nhưng không phải để ký giấy vay tiền mà là ký giấy chuyển nhượng nhà đất do chồng bà đứng tên là thửa số 26, tờ bản đồ số 36 để sang tên qua cho con gái là Trần Thị Khánh H2, sau khi sang tên xong thì bà Khánh H2 làm giấy tờ tặng cho lại bà Á, bà Khánh H2 có được tài sản trên là xuất phát từ tiền vay lãi cao vợ chồng bà không trả nổi nên bà Á đã cố tình làm giấy tờ giả tạo để làm hợp đồng chuyển nhượng nhà đất và sang tên cho bà khánh H2. Nay bà yêu cầu giải quyết:

Bà đồng ý trả nợ vốn vay là 600.000.000đồng và trả lãi theo quy định của pháp luật trên nợ vốn đã vay của bà Lương Thị A và yêu cầu Tòa án tính lại lãi suất vượt quá để trừ vào nợ gốc theo quy định của pháp luật.

Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lâm N2, bà Thạch Thị H với bà Trần Thị Khánh H2 đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2 đã được công chứng tại Văn phòng C, ngày 11/3/2016.

Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Khánh H2 với bà Lương Thị A đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2.

Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI 097968 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S đã cấp ngày 05/01/2018 cho bà Lương Thị A, vì bà Á được tặng cho từ bà Khánh H2. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Danh S1, bà Danh Thị H3, bà Thạch Thị S2, Kim Thị R đã ủy quyền cho ông Danh S: Thống nhất với yêu cầu của của bà Thạch Thị H. - Người đại diện theo ủy quyền của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S có lời trình bày:

Phần đất diện tích 238,9m2 thuộc thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, tọa lạc tại khóm E, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc là của bà Trần Thị Khánh H2, được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CĐ 303308 ngày 12/5/2016.

Đến ngày 18/11/2017, bà H2 lập hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất cho bà Á hết diện tích đất nêu trên, được Văn phòng C1 công chứng và được Sở Tài nguyên và Môi trưởng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CI 097968 ngày 05/01/2018. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho bà Á được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định. Do vậy, không đồng ý với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Á. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Văn phòng C (nay là Văn phòng C1), có người đại diện theo pháp luật: ông Trần Văn N1 không có ý kiến.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 69/2022/DS-ST ngày 24 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:

Căn cứ khoản 3, 6, 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; căn cứ khoản 3 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;

căn cứ Điều 117, Điều 463, 166 của Bộ luật Dân sự năm 2015; căn cứ điểm a khoản 4 Điều 95, điểm c khoản 1 Điều 99, Điều 202, điểm b khoản 2 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; căn cứ khoản 6 Điều 15, điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 24, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lương Thị A về việc yêu cầu buộc bà Thạch Thị H có trách nhiệm trả lại toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Buộc bà Thạch Thị H cùng các con, cháu trong gia đình gồm: ông Danh S, ông Danh S1, ông Danh P, bà Danh Thị H3, bà Kim Thị N5, cháu Danh Thị Ngọc T, Danh Thị Ngọc M, Danh Kim N6, Danh Kim T1 có trách nhiệm trả lại cho bà Lương Thị A toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản trên đất gồm: Phần đất thuộc thửa số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2, tọa lạc tại số B, đường D, khóm E, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng và tài sản trên đất là căn nhà mái tol xi măng, cột đúc, tường 10, cửa gỗ và 01 cây sung, 05 bụi chuối. Phần đất có các cạnh như sau:

- Hướng Đông giáp Trường Tiểu học L1, có số đo 46,65m; trong đó, từ đường D đo vào có 9,40m là hành lang lộ giới.

- Hướng Tây giáp với thửa số 90, tờ bản đồ 36, có số đo 46,58m; trong đó, từ đường D đo vào có 9,40m là hành lang lộ giới.

- Hướng Nam giáp đường D (đường nhựa), có số đo 5,21m.

- Hướng Bắc giáp bờ kênh công cộng có số đo 5,05m.

(Kèm Mảnh trích đo địa chính số 16-2019 của Công ty TNHH Đ3 và dịch vụ Đất mới đo đạc) 2. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của bà Lương Thị A về việc buộc bà Thạch Thị H phải bồi thường thiệt hại do việc chậm giao đất và tài sản trên đất với số tiền là 4.000.000 đồng.

3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Thạch Thị H về đồng ý trả nợ vay 600.000.000đồng và trả lãi theo quy định của pháp luật trên nợ vốn do ông Lâm N2 và bà Thạch Thị H đã vay của bà Lương Thị A và yêu cầu tính lại lãi suất vượt quá để trừ vào nợ gốc theo quy định của pháp luật; không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lâm N2, bà Thạch Thị H với bà Trần Thị Khánh H2 đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2 đã được công chứng tại Văn phòng C, ngày 11/3/2016; yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Khánh H2 với bà Lương Thị A đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI 097968 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S đã cấp ngày 05/01/2018 cho bà Lương Thị Anh . Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền thi hành án và quyền kháng cáo của các bên đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/11/2022 bị đơn bà Thạch Thị H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị đơn bà Thạch Thị H có người đại diện theo ủy quyền là ông Danh S vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Danh S trình bày: Việc chuyển nhượng đất là do bà H vay nợ của bà Á, nợ và lãi tăng lên nhiều lần không có điều kiện trả nên mới gán đất cho bà Á. Việc này bà H không biết, bà H không biết chữ. Bà H đồng ý trả lại số tiền 600.000.000đồng và số tiền lãi từ lúc mua đến giờ, đề nghị bà Á trả lại đất cho bà H. Nguyên đơn bà Lương Thị A trình bày: Việc trình bày của người đại diện của bị đơn là hoàn toàn sai sự thật. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và tuân thủ đúng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.

Về nội dung: Vị kiểm sát viên phân tích các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Thạch Thị H, nhận thấy bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, yêu cầu kháng cáo của bị đơn không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn trong hạn luật định, hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn:

[2.1] Về nội dung vụ án: Nguyên đơn bà Lương Thị A khởi kiện yêu cầu buộc bà Thạch Thị H phải có trách nhiệm trả lại toàn bộ quyền sử dụng đất và các tài sản khác gắn liền với đất, gồm: phần đất có diện tích 238,9m2, thuộc thửa số 26, tờ bản đồ số 36, tọa lạc tại số B, đường D, khóm E, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng và một căn nhà xây dựng trên đất nêu trên có kết cấu: cột đúc, mái tol xi măng, tường 10 đã bông tróc vôi, cửa gỗ.

Phía bị đơn bà Thạch Thị H không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của bà Á, vì thực tế ông N2, bà H có nợ vay tiền của bà Á, bà Á kêu ông N2, bà H đến Phòng công chứng để làm thủ tục vay tiền, do vợ chồng của bà H là người dân tộc khơ me, không biết chữ nên ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho con của bà Á, nên việc ký kết này là giả tạo, nay bị đơn đồng ý trả nợ vốn vay là 600.000.000đồng và trả lãi theo quy định của pháp luật trên nợ vốn đã vay của bà Lương Thị A và yêu cầu Tòa án tính lại lãi suất vượt quá để trừ vào nợ gốc theo quy định của pháp luật; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lâm N2, bà Thạch Thị H với bà Trần Thị Khánh H2 đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2 đã được công chứng tại Văn phòng C, ngày 11/3/2016; Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Khánh H2 với bà Lương Thị A đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI 097968 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S đã cấp ngày 05/01/2018 cho bà Lương Thị A,vì bà Á được tặng cho từ bà Khánh H2. Để chứng minh cho yêu cầu phản tố bà H cung cấp các giấy nhận nợ gồm: Giấy nhận nợ đề ngày 01/7/2015, ghi số tiền vay là 390.000.000 đồng, lãi suất 15%/tháng; Giấy nhận nợ đề ngày 08/10/2015, ghi số tiền vay là 450.000.000 đồng, lãi suất 10%, lãi suất quá hạn là 150% lãi trong hạn; Giấy nhận nợ ngày 01/12/2015 ghi số tiền vay là 480.000.000 đồng (trong đó ghi vay ngày 08/10/2015 là 450.000.000 đồng và vay tháng 12/2015 là 30.000.000đồng).

[2.2] Xét diễn biến quá trình chuyển nhượng:

Xuất phát từ hợp đồng vay tiền, cụ thể: ngày 17/7/2013 ông D Oanh Na, bà Thạch Thị H có vay của ông Đặng Văn N7 số tiền 60.000.000 đồng. Sau đó vợ chồng ông N2, bà H vay tiền của bà Á để hoàn trả cho ông N7. Vì theo hồ sơ thể hiện đến ngày 20/02/2014 dương lịch, bà Lương Thị A có người được ủy quyền là Trần Thị Khánh H2 với ông Danh Oanh N3 (Lâm Na), bà Thạch Thị H lập hợp đồng thỏa thuận mua bán diện tích đất 276m2 thuộc thửa số 26 với giá 100.000.000đồng, tại Điều 5 của hợp đồng có nội dung: “Bên A trả tiền mua đất cho bên B đi chuộc đất về. Bên B giao đất, nhà cho bên A ngày 25/02/2014”. Như vậy, có cơ sở xác định ngày 20/02/2014 vợ chồng ông N3, bà H thỏa thuận bán nhà đất cho bà Á số tiền 100.000.000đồng để lấy tiền trả cho ông N7 và lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về làm thủ tục chuyển nhượng lại cho bà Á. Tuy nhiên, sau khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về thì vợ chồng ông N3 chưa chuyển nhượng đất cho bà Á mà tiếp tục vay tiền, cụ thể phía bà H có cung cấp các giấy nhận nợ viết tay gồm:

- Giấy nhận nợ ngày 01/7/2015 vợ chồng ông N3, bà H ký giấy nhận nợ số tiền vay của bà Á là 390.000.000đồng, lãi suất là 15%/tháng, thời hạn trả nợ là đến ngày 26/02/2016, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất diện tích 276m2, nếu không trả đúng hạn thì ủy quyền cho bà Á bán đất để trả nợ, giá đất khởi điểm là 400 triệu đồng, nếu không đủ thì sẽ trả thêm gốc và lãi (bút lục số 197).

- Giấy nhận nợ ngày 08/10/2015 số tiền vay của bà Á là 450.000.000đồng, lãi suất là 10%/tháng, thời hạn trả nợ 2016, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn (bút lục số 198).

- Giấy nhận nợ ngày 01/12/2015 vợ chồng ông N3, bà H ký giấy nhận nợ số tiền vay của bà Á là 480.000.000đồng, lãi suất là 10%/tháng, thời hạn trả nợ là đến năm 2016 (bút lục số 199).

- Giấy nhận nợ ngày 01/3/2016 gồm 03 món vay: 450.000.000đồng;

100.000.000đồng; 30.000.000đồng, tổng cộng 580.000.000đồng.

Nguyên đơn bà Á cung cấp các hợp đồng vay tiền, thanh lý hợp đồng vay tiền, cụ thể:

- Ngày 27/02/2014 bà Lương Thị A với ông Danh Oanh N3, bà Thạch Thị H lập hợp đồng vay tiền, số tiền vay là 170.000.000đồng, thời hạn vay là 02 năm, lãi suất vay là 1%/tháng, tài sản đảm bảo nợ vay là quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân thị xã S cấp cho ông N3, bà H vào ngày 02/3/2021, phần đất thuộc thửa số 26 diện tích 276m2, hợp đồng vay tiền được Văn phòng C2 chứng thực số 703 quyển số 10/TP/CC-SCCC/HĐGD ngày 27/02/2014.

- Ngày 08/10/2015 Hợp đồng thanh lý hợp đồng vay tiền, được Văn phòng C2 chứng thực số 1842 quyển số 13/TP/CC-SCC/HĐGD. Căn cứ hợp đồng vay tiền đã ký ngày 27/02/2014 đã chấm dứt từ ngày 08/10/2015.

- Hợp đồng vay tiền ngày 8/10/2015, số tiền vay 450.000.000đồng. Tài sản đảm bảo nợ vay là quyền sử dụng đất thửa 26 diện tích 238,9m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BY 410633 số vào sổ số CH05037 do Ủy ban nhân dân thành phố S cấp 13/7/2015 cho bà Thạch Thị H và ông Lâm N2, lãi suất vay 1%, thời hạn vay từ ngày 08/10/2015 đến ngày 08/02/2016, hợp đồng được Văn phòng C2 chứng thực số 1851 quyển số 13/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 08/10/2015.

Đối chiếu các biên nhận nợ do bà H cung cấp với các hợp đồng do bà Á cung cấp như đã nêu trên, nhận thấy vào ngày 08/10/2015 giữa bà Á với ông N2, bà H đã lập hợp đồng thanh lý tiền vay đã ký kết ngày 27/02/2014, đồng thời hai bên ký hợp đồng vay tiền mới, như vậy số tiền vay trước ngày 08/10/2015 hai bên đã thanh toán xong và như vậy đến thời điểm này giữa bà Á với ông N2, bà H vẫn chưa thực hiện việc chuyển nhượng đất theo thỏa thuận lập ngày 27/02/2014, mà vợ chồng ông N2, bà H vẫn tiếp tục vay tiền của bà Á và thế chấp thửa đất số 26.

Hội đồng xét xử xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bà Á xác định số tiền thực tế bà cho vay là 450.000.000 đồng. Căn cứ lời trình bày của bà Á và căn cứ bản hợp đồng vay tiền do phía bà Á cung cấp đã được Văn phòng C2 chứng thực ngày 08/10/2015 có cơ sở xác định phía bà Á cho bà H và ông Lâm N2 vay số tiền là 450.000.000 đồng, hợp đồng vay tiền này phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Xét thấy, cùng ngày 08/10/2015 các bên có làm giấy biên nhận viết tay ghi lãi suất 10%, nhưng hợp đồng vay tiền có công chứng ghi lãi vay là 1%, nên bị đơn cho rằng thực tế nợ vay bà Á tính 10%/tháng là không có cơ sở, đồng thời phía bà H cũng không chứng minh được bà đã đóng lãi cho bà Á số tiền là bao nhiêu, số tiền lãi nhập vào tiền vốn là bao nhiêu. Mặc khác, ngày 11/10/2015 vợ chồng ông N2, bà H làm “Tờ cam kết ủy quyền bán tài sản thế chấp để trả nợ” (Bút lục số 245).

Do không có tiền trả nợ nên phía bà H cùng chồng là ông Lâm N2 đã đồng ý chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất diện tích 238,9m2 cho phía con của bà Á là Trần Thị Khánh H2 để trừ nợ. Ngày 09-3-2016 bà H2 với ông N2, bà H làm tờ biên nhận giao nhận tiền sang nhượng đất, trong đó trừ tiền thanh lý từ hợp đồng vay tiền 450.000.000 đồng và giao tiền mặt 150.000.000đồng. Theo bà Á trình bày là bà Á đưa trước cho ông N2, bà H 100.000.000 đồng và đến ngày ký hợp đồng chuyển nhượng thì bà Á đưa thêm 50.000.000 đồng, chứ con của bà là Trần Thị Khánh H2 không có trả tiền sang nhượng đất. Ngày 11/3/2016 tại Văn phòng C giữa ông Lâm N2, bà Thạch Thị H với bà Trần Thị Khánh H2 là con của bà Á lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2, giá chuyển nhượng là 600.000.000đồng, phương thức thanh toán theo thỏa thuận.

Như vậy các bên đã thỏa thuận trả tiền nợ vay sang chuyển nhượng đất và phía gia đình của bà Á đã giao tiền mặt thêm cho phía bị đơn. Nên phía bị đơn có đơn phản tố cho rằng nợ vay vốn gốc tổng cộng là 600.000.000đồng, bị đơn đồng ý trả nợ gốc và trả lãi theo quy định của pháp luật trên nợ vốn do ông Lâm N2 và bà Thạch Thị H đã vay của bà Lương Thị A và yêu cầu tính lại lãi suất vượt quá để trừ vào nợ gốc theo quy định của pháp luật là không có cơ sở, nên yêu cầu phản tố này không được chấp nhận.

[2.3] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Khánh H2 với ông bà Thạch Thị H và ông Lâm N2 đã được Văn phòng C, tỉnh Sóc Trăng công chứng số 766, quyển số 06 ngày 11/3/2016, thấy rằng phần đất bà H, ông N2 chuyển nhượng cho bà H2 có nguồn gốc là của ông N2, bà H và đã được Ủy ban nhân dân thành phố S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ngày 13/7/2015 cho bà Thạch Thị H và ông Lâm Na .1 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên đảm bảo về hình thức và nội dung phù hợp với quy định tại các Điều 430, 502, 503 Bộ luật Dân sự năm 2015. Giấy chứng nhận ghi tên bà Thạch Thị H và ông Lâm N2, là cấp cho ông N2 và bà H, không phải cấp cho hộ nên khi chuyển nhượng không cần có ý kiến của các thành viên khác trong hộ gia đình nên bị đơn cũng như con của bị đơn là ông Danh S cho rằng khi chuyển nhượng đất các con không biết và việc chuyển nhượng giữa các bên là giả tạo, bị đơn yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lâm N2, bà Thạch Thị H với bà Trần Thị Khánh H2 đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2 đã được công chứng tại Văn phòng C, ngày 11/3/2016 là không được chấp nhận.

Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đến ngày 12/5/2016 thì bà Trần Thị Khánh H2 được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00111. Việc bà Trần Thị Khánh H2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với quy định điểm a khoản 4 Điều 95, điểm c khoản 1 Điều 99 của Luật Đất đai năm 2013.

Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà H2 đã cho tặng lại cho mẹ ruột là bà Lương Thị A và hiện nay bà Lương Thị A được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI 097968 ngày 05/01/2018.

Căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S cấp ngày 05/01/2018 cho bà Lương Thị A thấy rằng phần đất có diện tích 238,9m2, thuộc thửa số 26, tờ bản đồ số 36, tọa lạc tại số B, đường D, khóm E, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Á, đồng thời trước khi vợ chồng bà H lập hợp đồng chuyển nhượng đất của bà H2 thì vào ngày 09-3-2016 các bên có thỏa thuận: “Bên bán đất xin bên mua được tạm trú thêm tối đa là 02 năm để chuẩn bị xây dựng nhà mới, hạn chót bên bán phải chuyển đi nơi ở mới là ngày 12- 3-2018 giao đất và tài sản trên đất cho bên mua sử dụng được bên mua chấp thuận” (bút lục số 373), nên bà Á yêu cầu buộc bà Thạch Thị H phải có trách nhiệm trả lại toàn bộ quyền sử dụng đất và các tài sản khác gắn liền với đất đối với phần đất có diện tích 238,9m2, thuộc thửa số 26, tờ bản đồ số 36, tọa lạc tại số B, đường D, khóm E, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng và buộc bà Thạch Thị H trả lại tài sản trên đất là 01 căn nhà có diện tích khoảng 40m2, mái tol xi măng, cột đúc cũ là có căn cứ, nên được chấp nhận. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn có kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng mới ngoài những căn cứ đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Thạch Thị H. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 69/2022/DS-ST ngày 24 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lương Thị A về việc yêu cầu buộc bà Thạch Thị H có trách nhiệm trả lại toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Buộc bà Thạch Thị H cùng các con, cháu trong gia đình gồm: ông Danh S, ông Danh S1, ông Danh P, bà Danh Thị H3, bà Kim Thị N5, cháu Danh Thị Ngọc T, Danh Thị Ngọc M, Danh Kim N6, Danh Kim T1 có trách nhiệm trả lại cho bà Lương Thị A toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản trên đất gồm: Phần đất thuộc thửa số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2, tọa lạc tại số B, đường D, khóm E, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng và tài sản trên đất là căn nhà mái tol xi măng, cột đúc, tường 10, cửa gỗ và 01 cây sung, 05 bụi chuối. Phần đất có các cạnh như sau:

- Hướng Đông giáp Trường Tiểu học L1, có số đo 46,65m; trong đó, từ đường D đo vào có 9,40m là hành lang lộ giới.

- Hướng Tây giáp với thửa số 90, tờ bản đồ 36, có số đo 46,58m; trong đó, từ đường D đo vào có 9,40m là hành lang lộ giới.

- Hướng Nam giáp đường D (đường nhựa), có số đo 5,21m.

- Hướng Bắc giáp bờ kênh công cộng có số đo 5,05m.

(Kèm Mảnh trích đo địa chính số 16-2019 của Công ty TNHH Đ3 và dịch vụ Đất mới đo đạc)

2/ Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của bà Lương Thị A về việc buộc bà Thạch Thị H phải bồi thường thiệt hại do việc chậm giao đất và tài sản trên đất với số tiền là 4.000.000 đồng.

3/ Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Thạch Thị H về đồng ý trả nợ vay 600.000.000đồng và trả lãi theo quy định của pháp luật trên nợ vốn do ông Lâm N2 và bà Thạch Thị H đã vay của bà Lương Thị A và yêu cầu tính lại lãi suất vượt quá để trừ vào nợ gốc theo quy định của pháp luật; không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lâm N2, bà Thạch Thị H với bà Trần Thị Khánh H2 đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2 đã được công chứng tại Văn phòng C, ngày 11/3/2016; yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Khánh H2 với bà Lương Thị A đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 36, diện tích 238,9m2; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI 097968 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S đã cấp ngày 05/01/2018 cho bà Lương Thị Anh.

4/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5/ Án phí dân sự phúc thẩm: Buộc bị đơn bà Thạch Thị H phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006327 ngày 17/11/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất (chiếm đất cho ở nhờ) số 450/2023/DS-PT

Số hiệu:450/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về