Bản án về tranh chấp QSD đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSD đất số 01/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 01/2023/DS-PT NGÀY 05/01/2023 VỀ TRANH CHẤP QSD ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QSD ĐẤT

Ngày 05 tháng 01 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án dân sự thụ lý 158/2022/TLPT- DS ngày 01 tháng 10 năm 2022 về việc“Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 33/2022/DS-ST ngày 20 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 431/2022/QĐPT-HC ngày 19 tháng 12 năm 2022; giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1972 và bà Trương Thị H, sinh năm 1978; địa chỉ: thôn T, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Lut sư Trương Văn B và Luật sư Nguyễn Văn N - Văn phòng luật sư C thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Bình; địa chỉ: tỉnh Quảng Bình; có mặt.

2- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1944 và bà Bùi Thị X, sinh năm 1952. Địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Nguyễn Thanh T - bà Bùi Thị X: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1973; địa chỉ: thôn T, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Bùi Thị X - Trợ giúp viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình; có mặt.

3- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Uỷ ban nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Bình, có ông Nguyễn Văn T - Chủ tịch UBND huyện đại diện, vắng mặt.

+ Sở Tài nguyên và môi trường Quảng Bình, do ông Nguyễn H - Giám đốc đại diện, vắng mặt; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có ông Nguyễn Trung H, Phó giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Quảng Bình; có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Văn C; địa chỉ: thôn T, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

+ Ông Nguyễn Văn L (có mặt) và bà Doãn Thị M (vắng mặt); địa chỉ: thôn T, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình.

4. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Thanh H và bà Trương Thị H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắc theo trình bày của các đương sự như sau:

- Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Nguyễn Thanh H và chị Trương Thị H đều thống nhất trình bày:

Năm 1998 vợ chồng anh chị được bố, mẹ anh H (ông C bà N) cho ở riêng, anh chị đã xây dựng nhà ở trên phần đất của bố mẹ cho. Tháng 8 năm 2016, ông C bà N đã lập thủ tục cho một phần đất hiện tại vợ chồng anh đang ở, được UBND huyện B, tỉnh Quảng Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 008603, ngày 18/8/2016, thửa đất số 1545, tờ bản đồ số 16, diện tích 1310m2 mang tên Nguyễn Thanh H và Trương Thị H, địa chỉ tại thôn T, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Thửa đất có vị trí: phía Nam giáp với đất nhà ông bà Nguyễn Kiều H, Nguyễn Thị Thu H, phía Đông giáp với đất gia đình ông bà Nguyễn Văn Đường, Nguyễn Thị T, phía Bắc giáp với đất gia đình ông Nguyễn Thanh T, phía Tây giáp với đường liên thôn.

Gia đình ông Nguyễn Thanh T có đất và nhà ở phía sau nhà anh H chị H, ông T đã lén lút đào phá hàng rào cây cối, ngăn cách giữa hai thửa đất và trồng cây chuối lên trên đất của anh chị. Khi vợ chồng anh chị phát hiện, nhiều lần yêu cầu gia đình ông T, bà X không được lấn sang đất của anh chị nhưng gia đình ông T vẫn không dừng lại mà tiếp tục trồng chuối lấn chiếm sang đất của anh chị.

Ngày 10/8/2020, anh H chị H phát hiện ông T tiến hành giăng dây giằng móng để chuẩn bị khởi công xây móng làm nhà cho con trên phần đất của gia đình anh chị. Vợ chồng anh H chị H yêu cầu gia đình ông T dừng việc thi công làm nhà nhưng ông T vẫn tiến hành chuẩn bị xây dựng nên đã báo với UBND xã C đến kiểm tra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và kiểm tra thực tế xác định vị trí ông T giăng dây chuẩn bị làm móng nhà nằm trên phần đất lấn chiếm. Tuy nhiên ông T vẫn tiếp tục cho máy vào múc đất san nền để tiếp tục xây dựng. UBND xã C đã lập Biên bản đình chỉ việc xây dựng của ông T, ông T không ký vào biên bản mà vẫn tiếp tục làm, hiện tại ngôi nhà đã làm xong phần thô. Do quá bức xúc, ngày 18/8/2020 anh chị ra ngăn cản thì bị con ông T đánh gây thương tích cho chị H phải nằm viện. Để đảm bảo quyền và lợi ích của mình, anh H chị H đề nghị Toà án giải quyết buộc ông Nguyễn Thanh T và bà Bùi Thị X phải chấm dứt việc xây dựng trái phép, tháo dỡ những công trình đã xây dựng trên đất và trả lại phần đất bị lấn chiếm với diện tích theo thực tế 252,4 m2.

Anh H, chị H không nhất trí về nội dung trong đơn phản tố của ông T yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình anh chị, vì anh chị khởi kiện là tranh chấp đất đai không phải là tranh chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không đúng với quan hệ pháp luật của vụ án. Việc UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình anh chị là đúng, việc lấn chiếm đất của ông T là sai nên ông T không có căn cứ để yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh chị.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Về nguồn gốc thửa đất là của ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị N (bố mẹ của nguyên đơn) đã sử dụng thửa đất của gia đình từ năm 1950, điều này được thể hiện ở phiếu lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất lập ngày 06/5/2016 (trong bộ hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn). Hộ ông Nguyễn Văn C được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 350, tờ bản đồ số 16, diện tích 2.142 m2 do UBND huyện B cấp ngày 30/7/2001. Ba phía thửa đất này tiếp giáp với đường phía còn lại tiếp giáp với thửa đất số 351, tờ bản đồ số 16 của ông Nguyễn Thanh T là 1.060m2, thể hiện tại Trích lục bản đồ địa chính đối với chủ sử dụng đất Nguyễn Thanh T năm 2011. Đường tiếp giáp giữa hai thửa đất là một đường thẳng. Ngày 05/5/2016 Văn phòng đăng ký đất đai đã tiến hành đo đạc kiểm tra thực địa đất của ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị N tại thửa đất số 350, tờ bản đồ địa chính số 16, kết quả đo đạc diện tích thửa đất là 2.319,0m2. Diện tích khi kiểm tra thực tế tăng 177,0m2 so với giấy chứng nhận đã cấp, diện tích thửa đất của nguyên đơn có đầy đủ là 1.310m2 và ranh giới với thửa đất ông T là một đường thẳng. Nhưng từ đó đến nay đã bị gia đình ông T lấn chiếm hết khoảng 252,4m2. Kết quả thẩm định của Toà án thì thửa đất của vợ chồng H - H chỉ còn lại 1.056m2 nên tạo ra ranh giới giữa thửa đất của nguyên đơn với thửa đất của ông T là một đường gấp khúc về phía thửa đất của nguyên đơn. Về thửa đất của ông Nguyễn Thanh T: Qua trích lục bản đồ địa chính năm 2011 thể hiện diện tích thửa đất ông T chỉ có diện tích 1.060m2, nhưng qua thẩm định thực tế của Toà án lại có diện tích 1.507,5m2 đã dư ra 447,5m2. Vậy phần đất dư ra này có dấu hiệu của việc xâm lấn sang đất của bị đơn mà có. Hơn nữa, ranh giới giữa hai thửa đất trước đây có hàng rào cây Rưới rất to, có 01 cái giếng nằm trên phần đất của ông C và có một lối mòn cũng nằm trên phần đất của ông C, nhưng hàng rào cây Rưới đã bị ông T đào, lối mòn cũng bị xoá và cái giếng bị lấp, cái giếng nằm tại vị trí căn nhà mà gia đình ông T đã xây dựng trái phép. Vì vậy đề nghị Tòa căn cứ kết quả thẩm định thực tế ngày 25/3/2022 để giải quyết chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc hộ ông Nguyễn Thanh T trả lại phần diện tích đất đã lấn chiếm theo thực tế là 252,4 m2, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc hủy giấy chứng nhận QSD đất của hộ ông Nguyễn Thanh H, hộ ông Nguyễn Văn L và ông Nguyễn Văn C.

- Bị đơn có yêu cầu phản tố, ông Nguyễn Thanh T trình bày:

Năm 1974, gia đình ông có khai hoang để làm nhà ở trên diện tích đất, sau này xác định là thửa đất 351 có diện tích là 1.451 m2 tại bản đồ địa chính năm 1997, tại thôn T, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình, làm nhà ở và làm vườn ổn định từ đó cho đến nay. Ngày 30/7/2001 ông đã được UBND cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Thanh T, có số xê ri: P 874569 thuộc thửa đất số 351, tờ bản đồ số 16, diện tích 1.060m2 (trong đó 200m2 đất ở, 860m2 đất vườn). Sát liền kề với thửa đất của ông về phía Nam là đất của gia đình ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị N (bố mẹ của anh Nguyễn Thanh H). Năm 2016, ông C, bà N tách thửa đất số 350, tờ bản đồ số 16 thành hai thửa gồm: Thửa đất số 1545 và 1546, tờ bản đồ số 16, trong đó thửa đất số 1545 được ông C, bà N tặng cho anh H và chị H đã được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 18/8/2016. Thửa đất số 1546 được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị N ngày 18/8/2016. Sau đó ông C, bà N tặng cho anh Nguyễn Văn L và chị Doãn Thị M đã được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 24/10/2018. Trước khi xảy ra tranh chấp hai gia đình sống hoà thuận, do đặc điểm địa hình nên thửa đất của gia đình ông C có bậc đất cao hơn so với thửa đất của gia đình ông T. Ranh giới sử dụng đất giữa hai gia đình được trồng bằng hàng rào cây xanh là bụi tre, cây bưởi, hiện hàng rào vẫn còn. Đến năm 2020 do hoàn cảnh con đông, nhà xuống cấp nên ông đã xây thêm một ngôi nhà cấp 4 nằm trong khuôn viên thửa đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông và nằm liền kề với thửa đất số 1545, tờ bản đồ số 16 của anh Nguyễn Thanh H, chị Trương Thị H thì phát sinh tranh chấp. Anh H, chị H khởi kiện cho rằng ông xâm chiếm đất trái phép, xây dựng nhà kiên cố trên một phần đất của gia đình anh H với diện tích khoảng 200 m2 và yêu cầu gia đình ông trả lại phần diện tích đất nói trên, buộc gia đình ông phải chấm dứt, tháo dỡ công trình đã xây dựng ở trên phần đất, trả lại nguyên trạng thửa đất cho nguyên đơn là không có căn cứ, vì đó là phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông đúng với thực tế sử dụng đất của hai gia đình từ trước cho đến nay.

Ông T thừa nhận có ký vào biên bản xác định mốc giới vào thời điểm ông C làm hồ sơ tách thửa tháng 5 năm 2016, khi đó anh H có cầm tờ giấy trắng đến nhà nhờ ông ký, vì tình làng nghĩa xóm nên ông ký vào mà không biết nội dung gì, thời gian lúc đó khoảng 07 giờ tối. Thực tế là gia đình anh H, chị H lấn chiếm đất của ông, theo bản đồ 1997. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, ông T phản tố yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc anh Nguyễn Thanh H, chị Trương Thị H phải trả lại phần diện tích đất đã lấn chiếm khoảng 180 m2 nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất 1545, tờ bản đồ số 16 đã được UBND huyện B cấp cho anh Nguyễn Thanh H, chị Trương Thị H số phát hành CD 008603 ngày 18/8/2016; Tuyên huỷ 03 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Nguyễn Thanh H, Trương Thị H đã được UBND huyện B cấp ngày 18/8/2016; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn C và Trần Thị N đã được UBND huyện B cấp ngày 18/8/2016 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn L và Doãn Thị M được UBND huyện B cấp ngày 24/10/2018. Vì thủ tục đo đạc tách thửa và cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 350, tờ bản đồ số 16 của ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị N vào năm 2016 là trái với quy định của Luật đất đai.

- Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn bà Bùi Thị X và ông Nguyễn Thanh T, chị Nguyễn Thị T trình bày: thống nhất với ý kiến của ông Nguyễn Thanh T, vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố, không đồng ý với ý kiến của nguyên đơn.

- Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, bà Bùi Thị X (trợ giúp viên pháp lý) trình bày:

Theo đo đạt năm 1997, thửa đất số 351 của gia đình ông T có diện tích 1.451 m2, thửa đất số 350 của gia đình ông C có diện tích 2.142 m2. Theo kết quả đo đạc được thể hiện trong Biên bản xác định mốc giới, ranh giới thửa đất ngày 05/5/2016 để tách thửa và cấp đổi lại Giấy chứng nhận QSD đất, diện tích đất của ông C, bà N khi tách thành 02 thửa lại tăng lên rất lớn từ 2.142 m2 (được cấp 2001) lên 2.319 m2, tăng 177 m2 so với Giấy chứng nhận QSD đất được cấp lần đầu.

Gia đình ông T là chủ sử dụng đất liền kề nhưng khi đo đạc để tách thửa cho gia đình ông C, cơ quan có thẩm quyền không thông báo cho gia đình ông T biết để cùng nhau chỉ mốc giới sử dụng đất giữa hai gia đình. Trong quá trình dẫn đo đạc, gia đình ông C đã có sự gian dối nên cố tình chỉ mốc ranh giới qua phần đất của ông T đã dẫn đến diện tích đất của ông C tăng lên và nằm chồng lên phần đất và nhà cũ của ông T. Cán bộ có thẩm quyền trong việc đo đạc, tách thửa không tiến hành đo đạc thực tế mà chỉ căn cứ vào kết quả đo đạc theo Dự án đo đạc bản đồ năm 2013 (Sở Tài nguyên - Môi trường phê duyệt năm 2016). Qua kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Toà án cho thấy phần đất tăng thêm của ông C, bà N nằm chồng lên nhà cũ (xây 1974) và nhà mới của ông T, bà X. Ranh giới sử dụng đất giữa hai gia đình từ trước đến nay đã có hàng rào cây xanh, hiện hàng rào cây xanh vẫn còn. Về vị trí thửa đất ông C có bậc đất cao hơn, đất của ông T có bậc đất thấp. Đất ông C có 3 mặt giáp đường giao thông, chỉ cạnh phía Đông giáp đất ông T nhưng qua lần đo đạc năm 2013 đất ông C tăng lên bất thường trong lúc không nhận chuyển nhượng của ai và cũng không có đất để khai hoang. Vì vậy đề nghị Tòa án buộc anh H, chị H phải trả lại phần diện tích đất khoảng 180 m2 cho ông T, tuyên hủy 03 Giấy chứng nhận QSD đất đã cấp cho anh H - chị H, ông C bà N và anh L chị M, lý do vì thủ tục đo đạc tách thửa và cấp đổi lại Giấy chứng nhận QSD đất đối với thửa đất số 350, tờ bản đồ số 16 của ông Nguyễn văn C và bà Trần Thị N vào năm 2016 là trái với các quy định của Luật đất đai.

- Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn L :

Tha đất số 1429 bản đồ sồ 16 là đã được bố mẹ ông tặng cho vào năm 2017, đã được Sở Tài nguyên môi trường Quảng Bình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 24/10/2018. Như vậy lô đất này thuộc quyền sử dụng của vợ chồng anh, anh không biết lý do gì mà ông T lại yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình tôi. Gia đình anh không chấp nhận nội dung yêu cầu của ông T, thửa đất của gia đình anh đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không vi phạm pháp luật, không lấn chiếm đất của ai. Thực tế tại phần đất ông T xây dựng nhà và đang tranh chấp là của gia đình anh, vì phần đất này trước đây gia đình anh sử dụng trồng hoa màu, từ năm 1983 đến năm 1986 anh giao đất lại cho ông C (bố anh). Anh thống nhất với ý kiến và khởi kiện của phía nguyên đơn.

- UBND huyện B có ý kiến tại văn bản số: 19/UBND ngày 07/01/2022: Đi với hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông, bà Nguyễn Văn C - Trần Thị N: Ông, bà Nguyễn Văn C - Trần Thị N được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 350, tờ bản đồ địa chính số 16 xã C, diện tích 2.142 m2, trong đó đất ở 200 m2, đất vườn 1.942 m2 vào ngày 30/7/2001. Đến năm 2016, ông, bà Nguyễn Văn C - Trần Thị N có đơn đề nghị tách thửa số 350, tờ bản đồ địa chính số 16 xã C thành 02 thửa để tặng cho anh chị Nguyễn Thanh H - Trương Thị H. Sau khi nhận được đơn, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện tiến hành đo đạc xác định mốc giới, ranh giới thửa đất. Sau khi đo đạc thì thấy rằng thửa đất số 350, tờ bản đồ địa chính số 16 có sự thay đổi về diện tích, cụ thể diện tích thực tế tăng 177,0 m2 so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp. Tại biên bản kiểm tra, đo đạc được chủ sử dụng đất liền kề (ông Nguyễn Thanh T) ký xác nhận mốc giới, ranh giới. Sau khi nhận đủ hồ sơ do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất gửi đến, Phòng Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông, bà Nguyễn Văn C - Trần Thị N và anh chị Nguyễn Thanh H - Trương Thị H tại Tờ trình số 3728/TTr-TNMT ngày 18/8/2016 và được UBND huyện B cấp cho ông, bà Nguyễn Văn C - Trần Thị N tại thửa đất số 1546, tờ bản đồ địa chính số 16 xã C, diện tích 1.009 m2, cấp cho anh chị Nguyễn Thanh H - Trương Thị H tại thửa đất số 1545, tờ bản đồ địa chính số 16 xã C, diện tích 1.310 m2.

Như vậy, quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông, bà Nguyễn Văn C - Trần Thị N và anh chị Nguyễn Thanh H - Trương Thị H được thực hiện theo đúng quy định. Về quan điểm của UBND huyện B: Đề nghị Tòa án căn cứ vào giấy tờ có liên quan và căn cứ theo các quy định của pháp luật để giải quyết theo đúng quy định. UBND huyện sẽ căn cứ theo quyết định của Tòa án nhân dân có thẩm quyền để thực hiện.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên - Môi trường Quảng Bình, do ông Nguyễn Trung H trình bày ngày 28/12/2021: Thửa đất số 1546, tờ bản đồ số 16 xã C, huyện B được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị N ngày 18/8/2016, số phát hành CĐ 008604 (được tách từ thửa đất số 350, tờ bản đồ số 16 xã C theo đề nghị của ông C bà N tại đơn đề nghị tách thửa ngày 30/3/2016. Ngày 11/10/2018, anh Nguyễn Văn L nộp hồ sơ đăng ký biến động đất đai do nhận tặng cho quyền sử dụng đất tại thửa đất có thông tin nêu trên của ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị N tại Bộ phận một cửa Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện B. Theo hồ sơ đăng ký biến động đất đai thì hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông, bà Nguyễn Văn C - Trần Thị N với anh chị Nguyễn Văn L, Doãn Thị M đã được UBND xã C chứng thực ngày 11/10/2018; thông tin thửa đất có thay đổi số hiệu thửa đất do đo đạc lại từ thửa đất số 1546, tờ bản đồ số 16 thành thửa đất số 1429, tờ bản đồ số 16, diện tích 1.008,5 m2.

Việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông, bà Nguyễn Văn C - Trần Thị N với anh chị Nguyễn Văn L, Doãn Thị M đảm bảo các điều kiện theo quy định pháp luật. Trên cơ sở đó, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B lập hồ sơ chuyển Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh kiểm tra, trình Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Bình ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Văn L và chị Doãn Thị M, số phát hành CP 630046, cấp ngày 24/10/2018, số vào sổ cấp GCN CS 02775 tại thửa đất số 1429, tờ bản đồ số 16, diện tích 1.008,5 m2. Như vậy Sở Tài nguyên và Môi trường đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông C, bà N với anh L, chị M đã cấp có thẩm quyền chứng thực là đúng thẩm quyền và đúng quy định của pháp luật.

Căn cứ khoản 3, khoản 9 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án. Do đó, Văn phòng đăng ký đất đai sẽ căn cứ vào Bản án xét xử của Tòa án về nội dung này để tham mưu trình Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện thu hồi Giấy chứng nhận QSD đất đã cấp hoặc giữ nguyên Giấy chứng nhận QSD đất đã cấp.

- UBND xã C có ý kiến tại biên bản xác minh ngày 10/5/2022: Bản đồ địa chính xã C được phê duyệt năm 2016 không trùng khớp với bản đồ cũ được duyệt từ năm 1997, quá trình sử dụng đất lâu dài nên có biến động về ranh giới sử dụng đất. Trong quá trình đo đạc và người dẫn đạc có sự nhầm lẫn về mốc giới nên bị lệch về diện tích, đầu năm 2016 việc đo đạc lại bản đồ trên địa phương mới áp dụng, cán bộ địa chính áp dụng bản đồ mới mà không thực địa thực tế tại thửa đất nên mới xảy ra sai sót.

[2] Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2022/DS - ST ngày 20 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 273, khoản 1 Điều 147, Điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Áp dụng Điều 105, Điều 166, Điều 170, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013; Điều 175 Bộ luật Dân sự, tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Thanh H - chị Trương Thị H về việc yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Thanh T trả lại 200 m2 đất.

2. Công nhận ranh giới đất hiện trạng thực tế giữa hộ ông Nguyễn Thanh T với hộ anh Nguyễn Thanh H - chị Trương Thị H và hộ anh Nguyễn Văn L - chị Doãn Thị M kéo dài từ điểm 2 qua các điểm 3, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 và 10 (có sơ đồ kèm theo).

3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn trả lại 180 m2 đất;

4. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Thanh T về việc hủy các Giấy chứng nhận QSD đất đứng tên anh Nguyễn Thanh H, chị Trương Thị H; anh Nguyễn Văn L, chị Doãn Thị M; ông Nguyễn Văn C, cụ thể:

- Hủy giấy chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 1545, tờ bản đồ số 16 do UBND huyện B cấp cho anh Nguyễn Thanh H và chị Trương Thị H có số phát hành CĐ 008603, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH00687 ngày 18/8/2016;

- Hủy giấy chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 1429, tờ bản đồ số 16 do Sở Tài nguyên - Môi trường Quảng Bình cấp cho anh Nguyễn Văn L và chị Doãn Thị M có số phát hành CP 630046, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS02775 ngày 24/10/2018;

- Hủy giấy chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 1546, tờ bản đồ số 16 do UBND huyện B cấp cho ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị N có số phát hành CĐ 008604, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH00687 ngày 18/8/2016;

Các bên đương sự có trách nhiệm liên hệ cơ quan có thẩm quyền làm các thủ tục đăng ký biến động đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản; phần án phí dân sự sơ thẩm và công bố quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[3] Kháng cáo:

Ngày 02-8-2022, nguyên đơn ông Nguyễn Thanh H và bà Trương Thị H kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy Bản án sơ thẩm. [4] Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, trình bày lý do kháng cáo là hộ gia đình ông C đã định cư ở đây từ năm 1950, quá trình sử dụng đất ổn định, ranh giới với hộ ông T là một đường thẳng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông H bà H là đúng quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát cấp cao Đà Nẵng tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với kháng cáo của Ông Nguyễn Thanh H và bà Trương Thị H do không có căn cứ nên không chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện các thủ tục tố tụng đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình tố tụng không có khiếu nại, tố cáo hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng.

[2] Ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị N sử dụng thửa đất số 350, tờ bản đố số 16 đã được UBND huyện B cấp ngày 30/7/2001 với diện tích 2.142 m2; địa chỉ tại xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình.

Năm 2016, ông Nguyễn Văn C - bà Trần Thị N xin tách thửa đất số 350 thành 02 thửa đất mới, gồm: thửa số 1545 với diện tích 1.310 m2 ông C-bà N đã tặng cho anh Nguyễn Thanh H - chị Trương Thị H và đã được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận QSD đất vào ngày 18/8/2016; thửa đất số 1546 với diện tích 1.009 m2 ông C - bà N tặng cho anh Nguyễn Văn L - chị Doãn Thị M và đã được Sở Tài nguyên - Môi trường Quảng Bình cấp Giấy chứng nhận QSD đất ngày 24/10/2018 với ký hiệu thửa đất mới là 1429. Tổng diện tích của hai thửa đất mới này là 2.319m2 .

Phần đất của anh H, chị H giáp với đất ông T, nguyên đơn anh H cho rằng hộ ông T đã lấn sang đất của nguyên đơn được cấp theo Giấy chứng nhận QSD đất là khoảng 200 m2, thc tế theo kết quả thẩm định là 252,4 m2.

[3] Ông Nguyễn Thanh T sử dụng thửa đất số 351, tờ bản đồ số 16 được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng lần đầu ngày 30/7/2001 và cấp ngày 30/7/2021 với diện tích 1.060 m2, địa chỉ tại xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Trên diện tích đất này có ngôi nhà của gia đình ông T xây dựng từ năm 1974. Bị đơn ông T không thừa nhận lấn đất của nguyên đơn bởi đất giữa hai gia đình đã sử dụng ổn định từ lâu nay, ranh giới xác định có hàng rào cây xanh.

[4] Quá trình sử dụng đất từ trước năm 1974, giữa hai hộ gia đình ông Nguyễn Thanh T và hộ ông Nguyễn Văn C thực tế có xác lập hàng rào cây xanh làm ranh giới giữa hai thửa đất đến nay vẫn còn; vị trí thửa đất của ông C có bậc đất cao, thửa đất của ông T có bậc đất thấp, thể hiện theo kết quả xem xét, thẩm định tại chổ ngày 25/3/2022 và ý kiến của những người ở liền kề biết vị trí thửa đất của hộ ông T và hộ ông C tại Biên bản hòa giải tranh chấp đất đai do UBND xã C tổ chức hòa giải ngày 25/8/2020 (BL: 8, 9).Theo trình bày của nguyên đơn, ranh giới giữa hai thửa đất trước đây có hàng rào cây Rưới rất to, có 01 cái giếng nằm trên phần đất của ông C và có một lối mòn cũng nằm trên phần đất của ông C, tuy nhiên qua xem xét, thẩm định tại chổ hiện cây rưới to, giếng nước và lối mòn không còn dấu tích, chỉ còn hàng rào cây xanh.

Theo bản đồ địa chính năm 2013 được Sở Tài nguyên - Môi trường Quảng Bình phê duyệt năm 2016 thì diện tích các thửa đất của hộ ông T và hộ ông C, anh H, anh L đều không phù hợp với diện tích tại bản đồ địa chính đo vẽ năm 1997 và thực tế hiện trạng do các bên sử dụng.

Trong quá trình sử dụng đất giữa hai hộ gia đình cũng thừa nhận, ranh giới đất là hàng rào cây xanh, điều này cũng phù hợp với ý kiến trình bày của những người cao tuổi ở liền kề với hộ ông T, ông C được Uỷ ban nhân dân xã C mời tham gia hòa giải tranh chấp đất giữa hai hộ vào ngày 25/8/2020.

Cạnh thửa đất trong Giấy chứng nhận QSD đất đã cấp cho hộ ông C- bà N (sau đó ông C- bà N tặng cho anh H- chị H và anh L- chị M) đã cắt ngang ngôi nhà cũ của ông T đã xây dựng từ năm 1974 và chồng lên một phần ngôi nhà ông T mới xây dựng đang bị UBND xã C đình chỉ xây dựng do có tranh chấp. Trong khi đó theo Bản đồ địa chính năm 1997 thì ranh giới nằm trong phần đất mà ông C đang sử dụng nên có một phần đất của ông T hiện do ông C đang sử dụng. Nhưng thực tế ông T cũng đã công nhận đất gia đình ông và đất của hộ ông C theo thực tế hiện trạng ranh giới là hàng rào cây xanh. Trên thực tế giữa hai thửa đất mà hai hộ gia đình đang sử dụng có hàng rào cây xanh (bao gồm tre, trúc, chè tàu và các loại cây khác) và giữa hai hộ gia đình ông T và ông C cũng đã xác định ranh giới trong quá trình sử dụng đất, giữa 2 gia đình không có ý kiến, tranh chấp, chỉ đến khi gia đình ông T xây dựng nhà mới thì mới phát sinh tranh chấp. Như vậy ranh giới giữa hộ gia đình ông T và hộ ông C (bao gồm anh H và hộ anh L) đã xác định theo thỏa thuận thực tế và tồn tại với thời gian dài. Theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Dân sự về ranh giới giữa các bất động sản "1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp; Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách…Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung. 2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác…" Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn diện tích đất bị đơn lấn chiếm là khoảng 200 m2 (chiều dài 27,5 m; chiều rộng phía tây: 9 m; phía nam: 6 m) nhưng thực tế là 252,4 m2 và yêu cầu bị đơn trả lại cho nguyên đơn; bị đơn ông T có đơn phản tố yêu cầu nguyên đơn trả lại 180 m2 đất. Tuy nhiên căn cứ hiện trạng ranh giới sử dụng đất giữa các hộ và diện tích theo giấy chứng nhận QSD đất đã cấp cho hộ ông C, ông H-bà H, ông L, bà M thì diện tích đất tranh chấp là 377,5 m2. Việc cấp giấy chứng nhận QSD đất cho hộ ông C, anh H, anh L đã cấp chồng lên phần đất và cắt ngang ngôi nhà ở (nhà cũ) của ông T đã xây dựng năm 1974 là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.

Từ phân tích trên, nhận thấy Uỷ ban nhân dân huyện B, Sở Tài nguyên - Môi trường Quảng Bình cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho hộ ông C, anh H- chị H và anh L- chị M là không phù hợp với thực tế sử dụng đất của các hộ dân và không phù hợp với bản đồ địa chính năm 1997. Do đó, cần công nhận ranh giới đất của các hộ theo thực tế kéo dài từ điểm 2 qua các điểm 3, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 và 10 (có sơ đồ kèm theo bản án sơ thẩm).

[5] Bản án sơ thẩm đã xác định ranh giới ổn định trong quá trình sử dụng có thời gian dài để phân xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả lại 252,4 m2 đất; không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn trả lại 180 m2 đất; chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn hủy các Giấy chứng nhận QSD đất của anh Nguyễn Thanh H - chị Trương Thị H do UBND huyện B cấp ngày 18/8/2016 tại thửa đất số 1545, diện tích 1.310 m2; giấy chứng nhận QSD đất của anh Nguyễn Văn L- chị Doãn Thị M do Sở Tài nguyên - Môi trường Quảng Bình cấp ngày 24/10/2018 tại thửa đất 1429 (số thửa cũ 1456); giấy chứng nhận QSD đất của ông Nguyễn Văn C - bà Trần Thị N do UBND huyện B cấp ngày 18/8/2016 tại thửa 1546, tờ bản đồ số 16 xã C. Quy định các bên đương sự có trách nhiệm liên hệ cơ quan có thẩm quyền làm các thủ tục, đăng ký biến động đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai là có căn cứ. Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của đương sự, nên quyết định giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Anh Nguyễn Thanh H và chị Trương Thị H phải chịu nộp 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thanh H và bà Trương Thị H, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2022/DS-ST ngày 20 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

2. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Nguyễn Thanh H và bà Trương Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng tại Biên lai số 0005045 ngày 11-8-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp QSD đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSD đất số 01/2023/DS-PT

Số hiệu:01/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về