Bản án về tranh chấp nợ hụi số 15/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN AN, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 15/2022/DS-ST NGÀY 16/05/2022 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI

Từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 147/2021/TLST-DS ngày 25 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp nợ hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2021/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Phương K, sinh năm 1953; cư trú tại: khu phố B, Phường 4, thành phố T, tỉnh Long An.

Ngưi đại diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Đặng Trường C, sinh năm 1976; địa chỉ: khu phố N, Phường Q, thành phố T, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Bà Hồ Thị N, sinh năm 1950; cư trú tại: Số 102/21 Tổ 8, Đường H, Phường X, thành phố T, tỉnh Long An.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Võ Thị Bé R, sinh năm 1954 (vợ của ông K); Cư trú tại: khu phố B, Phường M, thành phố T, tỉnh Long An.

Ngưi đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bà R: Ông Đặng Trường C, sinh năm 1976; địa chỉ: khu phố N, Phường Q, thành phố T, tỉnh Long An.

Ngưi làm chứng:

1. Bà Đoàn Thị K, sinh năm 1979; cư trú tại: Đường H, Phường X, thành phố T, tỉnh Long An.

2. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1966; cư trú tại: Đường N, Phường M, thành phố T, tỉnh Long An.

(Bà N, ông C, ông L, bà K có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 26 tháng 4 năm 2021 của ông Nguyễn Phương K và lời trình bày của ông Đặng Trường C là người đại diện theo ủy quyền cho ông K trong quá trình giải quyết vụ án thể hiện:

Do chỗ lối xóm quen biết nhau, ông K có tham gia chơi hụi do bà Hồ Thị N làm chủ hụi. Tổng cộng ông K tham gia 02 dây hụi như sau:

- Dây thứ nhất: mở ngày 30/7/2019, ngày mãn là 30/5/2021, tổng cộng có 23 hụi viên, hụi 2.000.000 đồng/tháng; 01 tháng khui 01 lần, quy định mức bỏ hụi thấp nhất là 400.000 đồng, hốt chót là 46.000.000 đồng, trừ đầu thảo 400.000 đồng, còn lại là 45.600.000 đồng. Ông K đã đóng hụi cho bà N được 21 phần x 2.000.000 đồng/phần = 42.000.000 đồng.

- Dây thứ hai: mở ngày 10/7/2020, ngày mãn là 10/3/2022, tổng cộng có 21 hụi viên, hụi 1.000.000 đồng/tháng; 01 tháng khui 01 lần, quy định mức bỏ hụi thấp nhất là 200.000 đồng, hốt chót là 21.000.000 đồng, trừ đầu thảo 200.000 đồng, còn lại là 20.800.000 đồng. Ông K đã đóng hụi cho bà N được 09 phần x 1.000.000 đồng/phần = 9.000.000 đồng.

Tng cộng 02 dây hụi ông K tham gia do bà N làm chủ hụi thì ông K được số tiền 51.000.000 đồng.

Đến khoảng ngày 18/4/2021, ông K hỏi bà N tháng 4 năm 2021 khui hụi lúc nào để ông K tham gia bỏ hụi hốt. Khi đó, bà N thông báo đã bể hụi mấy tháng rồi không khui hụi nữa. Khi đó, ông K tìm hiểu thì biết được mấy hụi viên khác tham gia cùng dây hụi với ông K vào mấy tháng trước bà N cũng tuyên bố bể hụi không giao tiền cho người hốt nhưng bà N vẫn thu tiền hụi chết, hụi còn sống của những hụi viên không biết vụ bể hụi cho đến nay.

Các dây hụi đều gần mãn nên bà N phải có nghĩa vụ trả tiền cho ông K như tiền hụi chết. Do bà N đã vi phạm thỏa thuận nghĩa vụ chơi hụi nên ông K yêu cầu bà N phải trả cho ông K một lần số tiền hụi chết là 51.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn bà Hồ Thị N trình bày:

Bà N thừa nhận lời trình bày của ông K về thời điểm mở hụi và mãn hụi của hai dây hụi cùng số thành viên tham gia chơi hụi như ông K nêu. Tuy nhiên, bà N không thống nhất về thời gian bể hụi, cụ thể: dây hụi mở ngày 30/7/2019 (số tiền 2.000.000 đồng), ông K chỉ đóng hụi sống tới phần thứ 19 là hụi đã bị bể; còn dây hụi mở ngày 10/7/2020 (số tiền 1.000.000 đồng), ông K chỉ đóng hụi sống được tới phần thứ 08/21 phần thì hụi bị bể. Nay bà N đồng ý trả lại cho ông K số tiền hụi gốc mà ông K đã đóng và tiền lãi theo quy định của pháp luật. Bản tường trình ngày 08/10/2021 ghi thời gian bể hụi vào tháng 3 năm 2021 là nhầm lẫn vì việc bể hụi xảy ra vào tháng 02 năm 2021 do sau khi khui hụi của tháng 02 thì một số người không đóng hụi nên bể hụi. Sau khi xảy ra sự cố bể hụi, bà N lo sợ nên không dám thông báo với các hụi viên. Sau đó, khoảng tháng 4 năm 2021, ông K có gặp bà N và yêu cầu bà N xác nhận nợ. Tờ xác nhận nợ hụi ngày 22/4/2021 thể hiện bà N có nợ tiền hụi gốc của ông K là 34.500.000 đồng là do chính ông K viết còn bà N ký tên và ghi họ tên. Sau khi viết xong, ông K đã người giữ tờ giấy này.

Trước yêu cầu khởi kiện của ông K, bà N chỉ đồng ý trả số tiền nợ cho ông K theo giấy xác nhận nợ hụi ngày 22/4/2021 và lãi suất theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay, hoàn cảnh của bà N rất khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 và nhiều người không đóng hụi nên bà N xin trả dần số nợ còn thiếu cho ông K.

Ông Đặng Trường C đại diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Bé R trình bày: Bà R là vợ của ông K, bà R thống nhất ý kiến của ông K và cam kết quyền lợi của ông K trong hai dây hụi mở ngày 30/7/2019 và mở ngày 10/7/2020 là tài sản riêng của ông K.

Tranh chấp của các đương sự đã được Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành nên vụ án được đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn vẫn giữ nguyên lời trình bày.

Ông Đặng Trường C đại diện cho nguyên đơn ông Nguyễn Phương K xác định nguyên đơn đã tham gia chơi hụi do bị đơn là chủ hụi nhiều năm nay; việc giao kết hụi giữa các bên là hụi có lãi nhưng không xác định được cụ thể lãi suất là bao nhiêu mà lãi là số tiền do các hụi viên bỏ hụi hàng tháng, nguyên đơn cũng không biết rõ họ tên và danh sách hụi viên của dây hụi mở ngày 30/7/2019 và 10/7/2020; việc tham gia hụi giữa các bên theo thói quen và không có lập thành văn bản, khi đóng hụi và giao nhận tiền đều không có ký nhận nhưng bà N có sổ ghi chép theo dõi, danh sách hụi viên là do bà N phô-tô đưa cho ông K giữ; ông K có thói quen chờ hụi gần mãn mới hốt nên không quan tâm việc bỏ hụi hàng tháng của các hụi viên, bà N thông báo bao nhiêu tiền thì ông K sẽ đóng bấy nhiêu. Tờ giấy ngày 22/4/2021 có nội dung xác định nợ hụi gốc với số tiền 34.500.000 đồng là ông K viết, bà N ký tên và ghi họ tên vào rồi đưa ông K giữ. Tuy nhiên, đó không phải là sự thỏa thuận chốt nợ sau khi bể hụi giữa hai bên mà là do bà N đọc cho ông K viết để làm tin.

Người làm chứng bà Đoàn Thị K trình bày: Bà K quen biết với ông K và bà N do chơi hụi chung nhiều năm nay. Đối với 02 dây hụi do ông K khởi kiện bà N thì bà K chỉ tham gia dây hụi mở ngày 30/7/2019 được hai phần hụi, một phần hụi đã hốt (còn lại là hụi chết) và một phần hụi chưa hốt (còn gọi là hụi sống). Đối với phần hụi chết, lúc đó bà N kêu là đang khó khăn nên xin bỏ hụi và mượn phần hụi này của bà K, khi đó bà K bỏ hụi lần thứ 18 và bỏ 500.000 đồng là được hốt. Bà N cũng đã giao cho bà K được 14.000.000 đồng, còn lại hai bên đã có chốt nợ với nhau. Sau khi bà K hốt hụi thì bà K chỉ đóng thêm 01 tháng hụi nữa là hụi bị bể. Hụi giữa các bên là hụi có lãi nhưng lãi không cố định. Đối với hụi 2.000.000 đồng thì khi hốt hụi, chủ hụi sẽ được hưởng 1.000.000 đồng, hụi 1.000.000 đồng thì chủ hụi hưởng được 500.000 đồng. Theo thói quen, việc tham gia chơi hụi giữa các hụi viên từ trước đến nay không có ký nhận gì mà dựa vào sự tin tưởng lẫn nhau. Bà K không có tranh chấp gì trong vụ án này.

Người làm chứng ông Nguyễn Văn L trình bày: Ông L gọi bà N là mẹ đỡ đầu. Ông L quen biết bà N và ông K do ông L ở gần nhà bà N. Lúc trước, ông L có giúp đỡ bà N lập sổ sách theo dõi hụi, có khi đi gom hụi và giao hụi giúp bà N. Việc tham gia hụi giữa các bên chủ yếu do tình làng nghĩa xóm, tương trợ giúp đỡ nhau làm ăn, khi đóng hụi và giao hụi đều không có ký nhận gì cả mà thực hiện theo sổ sách do bà N lập. Dịch bệnh Covid-19 khiến nhiều người mất thu nhập nên hốt hụi rồi mà không đóng hụi lại cho bà N mới xảy ra sự việc bể hụi này, bà N cũng mất khả năng choàng hụi. Sau khi xảy ra bể hụi thì bà N không còn gom hụi của ai nữa. Hiện nay, hoàn cảnh của bà N rấ khó khăn nên đề nghị ông K xem xét cho bà N trả dần nợ gốc và lãi theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát cho rằng:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự, người làm chứng tại phiên tòa có căn cứ xác định giữa ông K và bà N có xác lập giao dịch hụi gồm hai dây hụi mở ngày 30/7/2019 và 10/7/2020 do bà N làm chủ hụi. Các đương sự trình bày thống nhất về số dây hụi và số hụi viên trong từng dây hụi và thừa nhận việc xác lập giao dịch hụi giữa các bên không có việc ký nhận khi gom hụi cũng như khi giao hụi, việc bỏ hụi để hốt có khi thực hiện trực tiếp hoặc qua điện thoại, xác định hai dây hụi đã chấm dứt do bể hụi. Nguyên đơn cho rằng đối với dây hụi mở ngày 30/7/2019, nguyên đơn đã đóng hụi được 21/23 phần và dây hụi mở ngày 10/7/2020, nguyên đơn đã đóng được 09/21 phần. Tuy nhiên, bị đơn xác định đối với dây hụi mở ngày 30/7/2019, nguyên đơn chỉ đóng hụi sống đến phần thứ 19/23, dây hụi mở ngày 10/7/2020, nguyên đơn chỉ đóng hụi sống đến phần thứ 08/21. Căn cứ lời trình bày của người làm chứng và sổ sách do bị đơn theo dõi có cơ sở xác định việc bể hụi xảy ra vào tháng 02 năm 2021, chứ không phải tháng 4 năm 2021 như nguyên đơn nêu. Tờ giấy đề ngày 22/4/2021 thể hiện bà N có nợ ông K số tiền hụi gốc 34.500.000 đồng đã xác định hai bên có chốt nợ với nhau sau khi bể hụi và đây căn cứ để giải quyết tranh chấp giữa hai bên. Căn cứ Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ và Điều 471 của Bộ luật Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền nợ hụi gốc là 34.500.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn và bị đơn đều là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Ông Nguyễn Phương K khởi kiện tranh chấp nợ hụi với bà Hồ Thị N, cư trú tại Phường X, thành phố T. Căn cứ Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Long An.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:

[2.1] Các đương sự trình bày thống nhất về thời gian mở hụi, thời gian mãn hụi, về số dây hụi, về hụi viên của từng dây hụi, xác định hụi có lãi và lãi không cố định; xác định việc kết thúc hụi là do bể hụi chứ không phải mãn hụi; đồng thời các bên xác định việc tham gia chơi hụi giữa các bên đã diễn ra từ nhiều năm nay, được thực hiện theo thói quen nên khi đóng hụi và giao hụi đều không có ký nhận giữa các bên; cả hai dây hụi mở ngày 20/7/2019 (hụi 2.000.000 đồng) và mở ngày 10/7/2020 (hụi 1.000.000 đồng) nguyên đơn đều chưa hốt hụi. Bị đơn là chủ hụi và có mở sổ theo dõi hụi viên, theo dõi số tiền bỏ hụi và số thứ tự hốt hụi của các hụi viên. Căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, đây là những tình tiết không phải chứng minh.

[2.2] Các đương sự không thống nhất nhau về thời gian bể hụi và số tiền nợ hụi phải thanh toán, cụ thể:

[2.2.1] Về thời gian bể hụi: Đại diện nguyên đơn xác định dây hụi mở ngày 30/7/2019, nguyên đơn đã đóng hụi được 21/23 phần và dây hụi mở ngày 10/7/2020, nguyên đơn đã đóng hụi được 09/21 phần (tức là cả hai dây hụi này nguyên đơn đã đóng hụi sống được tới hết tháng 3 năm 2021). Đại diện nguyên đơn xác định việc đóng hụi sống và gom hụi giữa các hụi viên và chủ hụi không có lập thành văn bản ký nhận mà chỉ do bị đơn ghi sổ theo dõi. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ tài liệu, chứng cứ do bị đơn cung cấp dựa trên lời trình bày của đương sự và người làm chứng để xác định thời gian bể hụi. Tại sổ theo dõi hụi của bị đơn cung cấp cho Tòa án thể hiện bị đơn có ghi chú việc bỏ hụi của từng hụi viên trong các dây hụi. Đối với dây hụi mở ngày 30/7/2019, thể hiện việc bỏ hụi để hốt hụi đến lần thứ 19 (nhằm ngày 30/01/2021), người bỏ hụi tên “H”, đã bỏ hụi là 500.000 đồng; dây hụi mở ngày 10/7/2020, thể hiện việc bỏ hụi để hốt hụi đến lần thứ 08 (nhằm ngày 10/02/2021), người bỏ hụi tên “T”, đã bỏ hụi là 280.000 đồng. Tại phiên tòa, người làm chứng bà Đoàn Thị K cũng xác định bà K tham gia hai phần hụi của dây hụi mở ngày 30/7/2019, bà K (trong danh sách hụi ghi tên “G”) có cho bà N mượn phần hụi thứ nhất (đối chiếu sổ hụi do bà N lập thì bà K là người thứ 18 hốt phần hụi thứ nhất trong hai phần hụi mà bà K đã tham gia) và sau đó bà K chỉ đóng hụi thêm một tháng nữa thì hụi bể. Từ các căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xác định lời trình bày của bà N về việc các dây hụi bị bể vào tháng 02 năm 2021 và không có gom tiền hụi của các hụi viên là có cơ sở chấp nhận.

[2.2.2] Về số tiền nợ hụi phải thanh toán: Đại diện nguyên đơn xác định việc tham gia chơi hụi do bị đơn làm chủ hụi là hụi có lãi, tuy nhiên lãi không cố định mà lãi được xác định dựa trên số tiền các hụi viên bỏ hụi hàng tháng để được hốt hụi. Do nguyên đơn tham gia hụi đã gần mãn nên khi bể hụi, bị đơn phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền hụi như là nguyên đơn hốt hụi chót, theo đó: dây hụi mở ngày 30/7/2019, nguyên đơn đã đóng 21 phần/23 phần x 2.000.000 đồng = 42.000.000 đồng; dây hụi mở ngày 10/7/2020, nguyên đơn đã đóng 09 phần/21 phần = 9.000.000 đồng, tổng cộng bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền 51.000.000 đồng. Căn cứ sổ theo dõi hụi của bị đơn thể hiện:

- Dây hụi mở ngày 30/7/2019 (hụi 2.000.000 đồng), người bỏ hụi lần 01 là “2 H” với số tiền 660.000 đồng, các hụi viên còn lại trong đó có ông K sẽ đóng hụi là 1.340.000 đồng; người bỏ hụi lần 02 là “3 B” với số tiền 720.000 đồng, “02 H” đã hốt hụi (hụi chết) nên phải đóng hụi là 2.000.000 đồng, các hụi viên còn lại trong đó có ông K chưa hốt hụi (hụi sống) sẽ đóng hụi là 1.280.000 đồng, tương ứng theo sổ hụi do bà N cung cấp và thừa nhận của ông K thì phần hụi của nguyên đơn là hụi sống và ông K đóng hụi 19 lần với số tiền tương ứng lần lượt là 1.340.000 đồng, 1.280.000 đồng, 1.280.000 đồng, 1.320.000 đồng, 1.270.000 đồng, 1.400.000 đồng, 1.540.000 đồng, 1.470.000 đồng, 1.500.000 đồng, 1.480.000 đồng, 1.480.000 đồng, 1.550.000 đồng, 1.500.000 đồng, 1.450.000 đồng, 1.450.000 đồng, 1.300.000 đồng, 1.500.000 đồng, 1.500.000 và 1.500.000 đồng, tổng cộng ông K chỉ đóng 27.110.000 đồng chứ không có việc ông K đóng 42.000.000 đồng (21 phần x 2.000.000đ/phần) như trình bày của ông K.

- Dây hụi mở ngày 10/7/2020, người bỏ hụi lần 01 là “3 B” với số tiền 270.000 đồng, các hụi viên còn lại trong đó có ông K sẽ đóng hụi là 730.000 đồng; người bỏ hụi lần 02 là “3 N” với số tiền 335.000 đồng, “3 B” đã hốt hụi nên phải đóng hụi là 1.000.000 đồng, các hụi viên còn lại trong đó có ông K chỉ đóng có 665.000 đồng. Đối với dây hụi này, ông K chỉ đóng hụi 08 lần với số tiền tương ứng lần lượt là 730.000 đồng, 665.000 đồng, 650.000 đồng, 685.000 đồng, 660.000 đồng, 650.000 đồng, 600.000 đồng, 720.000 đồng, tổng cộng ông K đóng 5.360.000 đồng chứ không có việc ông K đóng 9.000.000 đồng (09 phần x 1.000.000đ/phần) như ông K trình bày.

Theo đó, hai dây hụi do bà N làm chủ hụi mà ông K đã tham gia và đã đóng hụi tổng cộng là 32.470.000 đồng. Tại Tờ xác nhận nợ hụi ngày 22/4/2021, bà N thừa nhận còn nợ ông K số tiền hụi gốc của hai dây hụi là 34.500.000 đồng. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số nợ là 51.000.000 đồng nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh nguyên đơn đã đóng hụi cho bị đơn với số tiền 51.000.000 đồng nên căn cứ vào thừa nhận của bị đơn tại Tờ giấy chốt nợ hụi ngày 21/4/2021 để xem xét. Nội dung tờ giấy chốt nợ hụi ngày 22/4/2021 thể hiện “Tôi tên Hồ Thị N S năm 1950 hiện ngụ nhà số X, Đường H, Phường X, TPTALA. Tôi có thiếu tiền hụi ông Nguyễn Phương K sinh năm 1953 hiện ngụ tại P4, TP T, Long An số tiền 34.500.000 đồng. Đây là tiền hụi xin trả vốn lại cho ông K (Ba mươi bốn triệu năm trăm ngàn)”.

Theo quy định của pháp luật, việc tổ chức hụi chỉ được thực hiện nhằm mục đích tương trợ lẫn nhau giữa những người tham gia quan hệ về hụi, không được tổ chức hụi để cho vay lãi nặng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tính nhiệm chiếm đoạt tài sản, huy động vốn trái pháp luật hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác. Việc tham gia hụi của các đương sự là hụi có lãi và lãi suất phải được điều chỉnh theo quy định của pháp luật. Do các đương sự thừa nhận hụi có lãi nhưng không xác định được mức lãi suất hoặc mức lãi suất vượt quá quy định, do đó áp dụng Điều 471 Bộ luật Dân sự, Điều 21 và 22 của Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường xác định lãi suất hụi của các bên là 10%/năm và được xác định kể từ ngày hai bên chốt nợ hụi. Theo đó, số tiền lãi được tính như sau: 10%/năm x 01 năm 21 ngày x 34.500.000 đồng = 304.041 đồng.

Như vậy, tổng cộng số tiền nợ hụi bà N phải trả cho ông K là 34.500.000 đồng + 304.041 đồng = 34.804.041 đồng.

[3] Xét yêu cầu trả dần nợ vay của bị đơn thấy rằng: Bà N đồng ý trả cho ông K số tiền nợ hụi gồm gốc là 34.500.000 đồng và lãi theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay hoàn cảnh bà N rất khó khăn lại lớn tuổi, thu nhập không ổn định nên bà N đề nghị ông K cho trả dần số nợ theo cách thức mỗi tháng trả 500.000 đồng cho đến khi trả hết nợ. Do pháp luật không quy định việc trả dần và nguyên đơn không đồng ý nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận.

[4] Yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phương K là có căn cứ chấp nhận một phần nên buộc bà Hồ Thị N trả cho ông K số nợ còn thiếu là 34.804.041 đồng, không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông K về việc yêu cầu bà N trả số tiền nợ hụi 16.195.959 đồng.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Phương K và bà Hồ Thị N là người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn án phí nên được miễn án phí theo Điều 12, 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm c Khoản 1 Điều 39, 147, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 280, 288, 471, 357 và 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường; Điều 12,14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phương K đối với bà Hồ Thị N về tranh chấp nợ hụi.

Buộc bà Hồ Thị N phải trả cho ông Nguyễn Phương K số tiền hụi gốc của dây hụi mở ngày 30/7/2019 và mở ngày 10/7/2020 là 34.500.000 đồng và tiền lãi là 304.041 đồng, tổng cộng là 34.804.041 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phương K đối với bà Hồ Thị N về yêu cầu trả số tiền nợ hụi là 16.195.959 đồng.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Phương K và bà Hồ Thị N được miễn án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp nợ hụi số 15/2022/DS-ST

Số hiệu:15/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về