TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 61/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/02/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 29 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 814/2023/TLST-HNGĐồngày 05 tháng 12 năm 2023 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2024/QĐXXST-HNGĐồngày 22 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Ngu ên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: số A, ấp M, xã N, huyện C, tỉnh An Giang.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn P, sinh năm 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số H, ấp M, xã N, huyện C, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và tờ tự khai nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày, bà và ông Nguyễn Tấn P tự nguyện tìm hiểu và sống chung vào năm 2009, c đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống với nhau đến đầu năm 2019 thì xảy ra mâu thu n, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm hay cãi nhau, chồng không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con và đánh đập bà. Gia đình hai bên c dàn xếp hòa giải vợ chồng nhưng không được. Vợ chồng không còn sống chung từ năm 2019 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, bà D yêu cầu được ly hôn với ông P.
Về con chung: Bà D xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 30/7/2010, hiện đang sống với bà. Sau khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Đ, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn ông Nguyễn Tấn P đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án của bà D và triệu tập hợp lệ để giải quyết, nhưng ông P vắng mặt không lý do, nên không ghi nhận ý kiến và hòa giải được.
Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị D có đơn xin vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu.
Ông Nguyễn Tấn P đã được tống đạt để tham gia phiên tòa, nhưng ông vắng mặt không lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về việc giải quyết vụ án:
Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị D xin ly hôn ông Nguyễn Tấn P.
Về quan hệ con chung: Bà D được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 30/7/2010, hiện đang sống với bà D. Ông P không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu c trong h sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]- Về hình thức: Bà Nguyễn Thị D khởi kiện xin ly hôn ông Nguyễn Tấn P c nơi cư trú ấp M, xã N, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
Bà Nguyễn Thị D c đơn xin vắng mặt. Ông Nguyễn Tấn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ hai, nhưng ông P vắng mặt không lý do chính đáng. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị D, ông Nguyễn Tấn P là c căn cứ.
[2]- Về nội dung: Bà Nguyễn Thị D và ông Nguyễn Tấn P sống chung vào năm 2009, c đăng ký kết hôn theo qui định. Vợ chồng sống đến năm 2019 thì xảy ra mâu thu n, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm hay cãi nhau, chồng không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con và đánh đập bà. Gia đình hai bên c hòa giải vợ chồng nhưng không được. Vợ chồng không còn sống chung từ đầu năm 2019 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, bà D xin ly hôn ông P. Hội đồng xét xử xét thấy, bà D và ông P kết hôn với nhau và c đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nên quan hệ hôn nhân giữa hai người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình giải quyết, Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án xin ly hôn của bà D, nhưng ông P không c ý kiến gì và vắng mặt trong các buổi hòa giải, điều này chứng tỏ mâu thu n giữa hai người đã trầm trọng nếu sống chung lại cũng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, do đ việc bà D xin ly hôn ông P là c cơ sở phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Diễm .
[2.1]- Về quan hệ con chung: Bà D xác định vợ chồng c 01 con chung tên Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 30/7/2010, hiện đang sống với bà D, sau khi ly hôn, bà D yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, việc nuôi con phải được xem xét trên cơ sở điều kiện nuôi dưỡng và bảo đảm sự ổn định và không làm ảnh hưởng tâm lý đối với con chung, hiện nay cháu T đang sống ổn định và c nguyện vọng sống với bà D sau khi cha mẹ ly hôn. Do đ yêu cầu của bà D phù hợp với Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đinh nên chấp nhận yêu cầu này.
[2.2]- Về quan hệ tài sản chung: Bà D không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.3]- Về nợ chung: Bà D không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[3]- Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Đương sự phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
Điều 28, 35, 39, 147, 227, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị D xin ly hôn ông Nguyễn Tấn P.
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 109 ngày 22/6/2010 của Ủy ban nhân dân xã N, huyện C, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
Về quan hệ con chung: Bà D được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 30/7/2010, hiện đang sống với bà D. Ông P không phải cấp dưỡng nuôi con.
Bà D cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông P trong việc thăm nom, chăm s c, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan c thẩm quyền, Tòa án c thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
Về quan hệ tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung: Ghi nhận bà D xác định không c nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn c hiệu lực pháp luật, nếu c nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung trong thời kỳ hôn nhân thì bà D, ông P vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
- Về án phí: Bà Nguyễn Thị D phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0014736 ngày 05/12/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.
Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự c quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7A và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 61/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 61/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về