Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 10/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 09 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số: 98/2021/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2021 về việc“Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Lê Thị Nh, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Thôn .., xã I, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. (Có mặt)

-Bị đơn: Anh Võ Khắc Th, sinh năm 1988.

HKTT: Tổ ..., Khối H, thị trấn P, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định Tạm Trú: Thôn .., xã I, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 01/10/2021, bản tự khai, tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Lê Thị Nh trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Nh và anh Võ Khắc Th qua quen biết, tìm hiểu, rồi đi đến hôn nhân. Có đăng ký kết hôn ngày 13/02/2015 tại Uỷ ban nhân dân xã I, huyện Chư Păh. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Th không chịu lo làm ăn, chơi bời bên ngoài, khi về nhà thì đánh đập chị và con riêng của chị Nh nhiều lần. Chị đi làm kiếm tiền về sắm sửa được một ít đồ dùng trong gia đình, nhưng anh Th không đi làm mà còn đập phá hết đồ đạc trong nhà, sau đó anh Th bỏ nhà đi vài ngày rồi lại về quậy phá trong gia đình. Sự việc cứ kéo dài như làm ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của chị và con cái. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị Nhất đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Võ Khắc Th.

Về con chung: Chị Nh và anh Th có một con chung là Võ Gia Ng, sinh ngày 06/11/2015. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi trực tiếp con chung.

Về cấp dưỡng tiền nuôi con: Chị Nh không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Vì anh Th hiện không có công việc ổn định, thu nhập thất thường. Chị hiện đang làm ăn buôn bán, làm 01ha rẫy cà phê, có nhà ở riêng ổn định, nên chị đảm bảo nuôi con và học hành đầy đủ.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị Nh không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra, chị Nhất không có yêu cầu gì thêm.

Đối với bị đơn là anh Võ Khắc Th: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên hoà giải, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo về việc nêu ý kiến đối với phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh Th không đến Toà án để làm việc, không cung cấp cho Toà án văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, do đó Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 56; 81; 82; 83; 84 của Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị Nh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chư Păh theo quy định khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Võ Khắc Th đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tống tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Nh và anh Võ Khắc Th tự nguyện tìm hiểu, không ai ép buộc, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 18 do Ủy ban nhân dân xã I, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai cấp ngày 13/02/2015. Nên hôn nhân giữa chị Nh và anh Th là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Chị Lê Thị Nh khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với anh Võ Khắc Th vì chị cho rằng chị và anh Th sống không hạnh phúc, anh Th không chịu lo làm ăn, chơi bời bên ngoài, khi về nhà thì đánh đập chị và con riêng của chị, ngoài ra anh Th còn đập phá hết đồ đạc trong nhà. Quá trình thụ lý giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng và quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ, nhưng anh Võ Khắc Th không lên Tòa án làm việc và không có ý kiến gửi choTòa án cho thấy anh Th đã từ bỏ quyền lợi của mình, không muốn hàn gắn tình cảm với chị Nh. Chính quyền địa phương cũng xác nhận chị Nh và anh Th thường xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng thường cãi nhau, anh Th nhiều lần đập phá đồ đạc.Từ những cơ sở đó, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa chị Nh và anh Th đã thật sự lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị Nh là có cơ sở chấp nhận, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị Nh và anh Th có một con chung là Võ Gia Ng, sinh ngày 06/11/2015. Ly hôn, chị Nh có nguyện vọng được nuôi trực tiếp con chung.

Xét nguyện vọng của chị Nh thấy rằng: Chị Nh có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Do đó, căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu của chị Nh.

Về cấp dưỡng tiền nuôi con: Chị Nh không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con, nên không xem xét.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung khác: Chị Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[3] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì chị Lê Thị Nh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điều 56; 57; 81; 82; 83; 84 của Luật hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Nh được ly hôn với anh Võ Khắc Th.

Về con chung: Giao cháu Võ Gia Ng, sinh ngày 06/11/2015 cho chị Nh trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên có khả năng lao động hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Th không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho chị Nh.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Buộc chị Lê Thị Nh phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị Nh đã nộp tạm ứng án phí trước đây theo biên lai thu án phí, lệ phí Tòa án số: 0007022 ngày 18 tháng 10 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về