Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 101/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 101/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

 Ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 137/2021/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2021 về việc: Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị N, sinh năm 1994

Địa chỉ: Khu vực 5, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh L

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn T, sinh năm 1988

Địa chỉ: Khu vực 5, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh L (ChịN có mặt, anh T xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 18 tháng 2 năm 2021 và những lời khai tiếp theo chị Phan Thị N trình bày: Chị và anh T có tìm hiểu nhau thời gian 01 năm, sau đó chị và anh T chung sống với nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đến tháng 6 năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, thường xuyên cãi nhau, đồng thời anh T đánh chị nhiều lần, nên chị và anh T xa nhau từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T chung sống được 01 con chung tên Nguyễn Tấn Phú, sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016 (chị đang nuôi con), khi ly hôn chị xin tiếp tục nuôi con. Chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Chị và anh T không có, nên không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại lời trình bày của bị đơn anh Nguyễn Tấn T: Anh xác định điều kiện kết hôn là đúng theo lời trình bày của chịN.

Nay chịN xin ly hôn, anh đồng ý.

Về con chung: Anh và chịN chung sống sinh được 01 con chung tên Nguyễn Tấn Phú, sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016 (chịN đang nuôi con), khi ly hôn anh đồng ý để con cho chịN tiếp tục nuôi, anh không cấp dưỡng.

Về tài sản chung; không có. Về nợ chung: Không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và anh T đề nghị xin vắng mặt công khai chứng cứ, hòa giải và xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Phan Thị N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Tấn T, anh T có địa chỉ tại thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, được Công an thị trấn Đức Hòa xác nhận và có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Nguyễn Tấn T có đề nghị xét xử vắng mặt, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Tấn T.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị N và anh Nguyễn Tấn T có tìm hiểu nhau thời gian 01 năm, sau đó chịN và anh T chung sống với nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Nên hôn nhân giữa chịN và anh T là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, chịN và anh T đều cho rằng do cuộc sống không phù hợp, thường xuyên cãi nhau, nên chịN và anh T xa nhau từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay.

Thấy rằng từ khi chịN và anh T ly thân từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay, mâu thuẫn giữa chịN và anh T cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Tại phiên tòa hôm nay chịN cương quyết ly hôn. Đối với anh T vắng mặt, nhưng tại bản tự khai anh T đồng ý ly hôn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng đời sống chung vợ chồng của chịN và anh T không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu xin ly hôn của chịN đối với anh T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]. Về con chung: ChịN và anh T chung sống có 01 con chung tên Nguyễn Tấn Phú, sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016 (chịN đang nuôi con). Tại phiên tòa hôm nay chịN xin được nuôi con. Đối với anh T vắng mặt, nhưng tại bản tự khai anh T đồng ý để con cho chịN tiếp tục nuôi. Thấy rằng từ khi chịN và anh T ly thân với nhau, chịN là người trực tiếp nuôi con chu đáo, đồng thời anh T đồng ý để con cho chịN tiếp tục nuôi. Do đó để đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu Phú, cần tiếp tục giao cháu Phú cho chịN tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Tại phiên tòa hôm nay chịN không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung: ChịN anh T khai không có. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: ChịN và anh T thống nhất khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Chị Phan Thị N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227 khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 9 và Điều 56 Điều 81 Điều 82 Điều 83 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị N đối với anh Nguyễn Tấn T về việc “Ly hôn”.

Chị Phan Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Tấn T.

2. Về con chung; ChịN được tiếp tục nuôi con tên Nguyễn Tấn Phú, sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016 (chịN đang nuôi con) anh T không phải cấp dưỡng nuôi con, vì chị N không yêu cầu.

Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Khi cần thiết các bên có thể thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: ChịN phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007486 ngày 18/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang án phí để thi hành. Như vậy chịN không phải nộp tiếp.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 101/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:101/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về