Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 26 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 190/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2021 về “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/TB-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Cẩm T, sinh năm 1998 (vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Trần Văn Tr, sinh năm 1994 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp XM 2, xã TP, huyện GD, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Lê Thị Cẩm T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trần Văn Tr tự nguyện chung sống với nhau vào ngày 12-8-2017 DL, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LT, huyện BC. Nữ trang ngày cưới gồm có 07 chỉ vàng 24K, hiện không còn nên chị không yêu cầu giải quyết. Sau khi kết hôn chị và anh Tr sinh sống tại nhà cha mẹ ruột của chị đến khi vợ chồng ly thân.

Trong thời gian chung sống với chị, anh Tr thường xuyên đi chơi, cờ bạc, bán tài sản trong nhà dẫn đến anh chị thường xuyên cãi vã với nhau, cách vài tháng thì anh Tr tự ý bỏ nhà đi đâu không rõ khoảng 2-3 tháng mới về nhà rồi lại tiếp tục đi, đến ngày 25-10-2019 DL anh Tr bỏ nhà đi đến nay. Thời gian đầu sau khi ly thân, anh Tr và chị có liên lạc nói chuyện qua điện thoại để bàn việc đoàn tụ nhưng chị không đồng ý nên sau đó anh Tr không liên lạc với chị. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc đến chị yêu cầu ly hôn với anh Tr.

Về con chung: Có 01 cháu tên Trần Gia T, sinh ngày 04-02-2018, hiện đang sống chung với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu T, không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con. Hiện chị đang làm công nhân thu nhập 10.000.000 đồng/tháng, đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Trần Văn Tr: Tòa án đã triệu tập hợp lệ để thu thập chứng cứ, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Tr không đến và không gửi văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án nên không có lời trình bày.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi vào nghị án được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn anh Trường chưa thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân gia đình; Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T đối với anh Tr. Về con chung: giao cháu Trần Gia T, sinh ngày 04-02-2018 cho chị T nuôi dưỡng, ghi nhận chị T không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Tr đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên vụ án vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị T, anh Tr tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Ủy ban nhân dân xã LT, huyện BC vào năm 2017. Do đó, hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị T: Quá trình chung sống giữa anh chị có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Tr thường xuyên đi chơi, bỏ nhà đi, bán tài sản trong gia đình để cờ bạc dẫn đến anh chị thường xuyên cãi vã với nhau, sau đó đến ngày 25-10-2019 anh Tr tự ý bỏ nhà đi đến nay không về nhà.

Xét thấy, mẫu thuẫn giữa chị T, anh Tr đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T đối với anh Tr. Chị T được ly hôn với anh Tr.

[2.2] Về con chung: Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Trần Gia T, sinh ngày 04-02-2018, không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, từ khi chị T, anh Tr sống ly thân (từ 2019 đến nay) cháu T sống chung với chị T ổn định, chị T có thu nhập 10.000.000 đồng/tháng, đủ điều kiện nuôi con nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị T, giao cháu T cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh Trường cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung nợ chung: Không yêu cầu nên không giải quyết.

[3] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào các điều 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị Cẩm T đối với anh Trần Văn Tr. Chị T được ly hôn với anh Tr.

2. Về con chung: Giao cho chị T có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Gia T, sinh ngày 04-02-2018. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con.

Anh Tr có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Cẩm T phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0012990 ngày 25-5-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu. Chị T đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về