Bản án về tranh chấp ly hôn số 98/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 98/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 199/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 418/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Huyền M, sinh năm 2000 (Có mặt) Địa chỉ: Khóm 3, phường TX, thành phố CM, tỉnh CM.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1996 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khóm 3, phường TX, thành phố CM, tỉnh CM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/4/2021 và quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Huyền M trình bày:

Về hôn nhân: Năm 2019, chị M và anh Nguyễn Quốc T tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường TX, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, từ đầu năm 2020 giữa anh chị xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, không hợp nhau. Hiện anh chị đã ly thân, chị M xác định không còn tình cảm và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh T.

Về nuôi con chung: Chị M và anh T có 01 người con chung là Nguyễn Quốc K, sinh ngày 06/5/2019, đang sống cùng anh T. Khi ly hôn, chị M yêu cầu giao con cho anh T nuôi, chị tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản và nợ chung: Chị M xác định không có tài sản chung, không có nợ chung và không ai nợ lại.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Nguyễn Quốc T đầy đủ, đúng theo quy định pháp luật, bị đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Tại biên bản ghi lời khai của đương sự anh Nguyễn Quốc T trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian chung sống, nơi đăng ký kết hôn và mâu thuẫn đúng như chị M trình bày. Nay chị M xin ly hôn thì anh T đồng ý.

Về con chung: Có 01 người con chung là Nguyễn Quốc K, sinh ngày 06/5/2019, hiện đang sống cùng anh. Khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi con, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Anh T xác định không có tài sản chung, không có nợ chung và không ai nợ lại.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Quốc T yêu cầu xét xử vắng mặt do đó Căn cứ vào Điều 207, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Năm 2019, chị Nguyễn Thị Huyền M và anh Nguyễn Quốc T tự nguyện chung sống với nhau và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân giữa anh chị được pháp luật công nhận là hợp pháp và được bảo vệ.

[3] Xét nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh T và chị M thấy rằng: Thời gian đầu chung sống hạnh phúc. Về sau anh chị xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, không hợp nhau nên anh chị đã ly thân. Chị M xác định không còn tình cảm và cương quyết xin được ly hôn, đối với anh T thừa nhận vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn và đồng ý ly hôn với chị M. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh T không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Huyền M được ly hôn với anh Nguyễn Quốc T.

[4] Về con chung: Chị M và anh T có 01 người con chung Nguyễn Quốc K, sinh ngày 06/5/2019, hiện đang sống cùng anh T. Khi ly hôn, chị M yêu cầu giao con cho anh T nuôi, chị M tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh T yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng. Hội đồng xét xử quyết định giao cháu K cho anh T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Chị M không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con, căn cứ vào khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình thì cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, tuy nhiên tại phiên tòa chị M tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung 1.000.000 đồng/tháng đến khi con đủ 18 tuổi, thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Xét đây là sự tự nguyện của chị M, có lợi cho sự phát triển của cháu K và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của chị M.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị M và anh T xác định không có tài sản chung, không có nợ chung và không ai nợ lại.

[7] Về án phí: Chị M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 143, 147, 207, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, Mễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Huyền M về việc xin ly hôn anh Nguyễn Quốc T.

- Về nuôi con chung: Giao con chung là Nguyễn Quốc K, sinh ngày 06/5/2019 cho anh Nguyễn Quốc T trực tiếp nuôi dưỡng.

Chị M không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng với anh T với số tiền là 1.000.000 đồng/tháng (Một triệu đồng) cho đến khi cháu K thành niên (đủ 18 tuổi). Thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Kể từ ngày người có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng phải chịu lãi suất chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết - Về án phí: Chị M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ngày 22/4/2021, chị M đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000951 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau được đối trừ chuyển thu sung quỹ Nhà nước. Chị M phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy đinh tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 98/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:98/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về