Bản án về tranh chấp ly hôn số 977/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 977/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 426/2022/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 440/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 387/2022/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Long T, sinh năm: 1979 Địa chỉ: Số D7/28A ấp X, xã Y, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thùy T1, sinh năm: 1978 Địa chỉ: Số D7/23C ấp X, xã Y, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/4/2022 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn ông Nguyễn Long T trình bày:

Ông T và bà Nguyễn Thị Thùy T1 tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2009, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 64, quyển số 01/2009 cấp ngày 21/10/2009. Thời gian đầu, cuộc sống vợ chồng rất hạnh phúc, nhưng đến năm 2021 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hòa hợp. Bà T1 thường hay vay nợ bên ngoài, dẫn đến vợ chồng thường xuyên gây gỗ, không còn sự tôn trọng và thương yêu, chăm sóc lẫn nhau; tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc. Cả hai đã sống ly thân từ năm 2021 cho đến nay. Nay ông T nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với bà T1.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên là Nguyễn Ngọc Bảo T2, sinh ngày 06/02/2010 (Giới tính: Nữ). Khi ly hôn, ông T đồng ý giao trẻ T2 cho bà T1 trực tiếp nuôi dưỡng; ông T sẽ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng với số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Về tài sản chung, nợ chung: Ông T xác nhận không có.

Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Thùy T1: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định; nhưng bà T1 vắng mặt không có lý do, không thể hiện ý kiến của mình bằng bất cứ văn bản nào nên vụ án không tiến hành hòa giải được và được đưa ra xét xử công khai.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

− Về tố tụng:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định về thẩm quyền thụ lý và trong quá trình giải quyết vụ án; Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định về việc xét xử sơ thẩm vụ án và về thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật, bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định.

− Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Long T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thùy T1; bị đơn hiện cư trú tại xã Y, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa:

Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn bà Nguyễn Thị Thùy T1 vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Nguyên đơn ông Nguyễn Long T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự. [3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ vợ chồng: Ông T và bà T1 tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 64, quyển số 01/2009 cấp ngày 21/10/2009; do đó có cơ sở xác định hôn nhân giữa ông T và bà T1 là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T xác định giữa ông và bà T1 mâu thuẫn trầm trọng do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, vì vậy ông T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà T1. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy giữa ông T và bà T1 đã từ lâu hai bên ít còn sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Mặt khác, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa xét xử bà T1 vẫn vắng mặt, điều này chứng tỏ giữa hai người đã không còn liên lạc, tình cảm vợ chồng đã không còn, cả hai không có thiện chí đoàn tụ; mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Long T đối với bà Nguyễn Thị Thùy T1 là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.3] Về con chung, khi ly hôn, ông T đồng ý giao trẻ Nguyễn Ngọc Bảo T2, sinh ngày 06/02/2010 cho bà T1 trực tiếp nuôi dưỡng; ông T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng với số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Căn cứ Công văn số 375/UBND ngày 17/8/2022 của Ủy ban nhân dân xã Qui Đức, huyện Bình Chánh trả lời kết quả với nội dung: “… Trẻ Nguyễn Ngọc Bảo T2 hiện do mẹ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng…”. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay trẻ T2 đang sinh sống cùng với bà T1; việc chăm sóc, nuôi dưỡng do bà T1 trực tiếp trông nom, nuôi dạy trẻ nên Hội đồng xét xử xét thấy giao trẻ T2 cho bà T1 trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở. Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, ông T đồng ý thực hiện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng với số tiền là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng); đây là quyền lợi của trẻ, việc cấp dưỡng của ông T phù hợp với quy định tại các Điều 82, Điều 107, Điều 110 và Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

[3.4] Về tài sản chung, nợ chung: Ông T xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Nguyên đơn chịu án phí dân sự sơ thẩm và chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 8; Điều 9; Điều 51; Điều 56, 57, 58; Điều 69; Điều 71; Điều 81, 82, 83, 84, 85, 86; Điều 107; Điều 110; Điều 116 và Điều 117 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điều 26 của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014);

Điểm a khoản 5; điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

I. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Long T đối với bà Nguyễn Thị Thùy T1.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Long T được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thùy T1.

Giấy chứng nhận kết hôn số 64, quyển số 01/2009 đăng ký ngày 21 tháng 10 năm 2009 tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Nguyễn Long T và bà Nguyễn Thị Thùy T1 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Giao trẻ Nguyễn Ngọc Bảo T2, sinh ngày 06/02/2010 (Giới tính: Nữ) cho bà T1 trực tiếp nuôi dưỡng.

Hằng tháng, vào ngày 15 dương lịch, ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng); bắt đầu thực hiện từ ngày 15 tháng 10 năm 2022 cho đến khi phát sinh căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Trường hợp ông Nguyễn Long T chậm thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con thì kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bà Nguyễn Thị Thùy T1 cho đến khi thi hành án xong, ông T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ông Nguyễn Long T có quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung khi cần thiết có thể xin thay đổi nuôi con hoặc đóng góp mức cấp dưỡng nuôi con sau này.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Ông T xác nhận không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Long T chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0040998 ngày 19/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông T còn phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a và 9 của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

II. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 977/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:977/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về