Bản án về tranh chấp ly hôn số 85/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 85/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 144/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 46/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10/9/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Th, sinh năm 1990 Hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở: Thôn Ứ, xã Th, huyện Th, tỉnh Hà Nam.

- Bị đơn: Anh Phan Tiến Ch, sinh năm 1980 Địa chỉ: Thôn B, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

(Chị Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Ch vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn là chị Vũ Thị Th có yêu cầu khởi kiện như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Th kết hôn với anh Phan Tiến Ch trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình vào ngày 24/01/2010. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống tại nhà anh Ch ở Thôn B, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Vợ chồng hòa thuận được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Ch nghiện ma túy, không nghề nghiệp và không chịu khó làm ăn. Chị đã khuyên giải anh Ch nhưng anh không sửa đổi. Khoảng tháng 10/2011 chị Th đã về nhà bố mẹ đẻ là ông Vũ Văn Đ và bà Nguyễn Thị S ở thôn Ứ, xã Th, huyện Th, tỉnh Hà Nam sinh sống và ly thân với anh Ch từ đó đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không mang lại hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Ch.

Về con chung: Chị Th trình bày chị và anh Ch không có con chung. Hiện nay chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Bị đơn anh Phan Tiến Ch vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

- Kết quả xác minh với gia đình anh Ch và cơ sở Thôn B, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, thể hiện: Việc kết hôn giữa chị Vũ Thị Th và anh Phan Tiến Ch như chị Th trình bày là đúng. Sau kết hôn, vợ chồng chung sống cùng gia đình anh Ch ở Thôn B, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Quá trình chung sống, vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn do anh Ch không tu chí làm ăn và nghiện ma túy. Khoảng cuối năm 2011 chị Th đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị Th ở tỉnh Hà Nam sinh sống và ly thân với anh Ch từ đó đến nay. Gia đình anh Ch có đến tìm chị Th về nhưng chị Th cương quyết không về sống cùng anh Ch. Nay chị Th xin ly hôn, gia đình anh Ch đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật còn phía cơ sở thôn B, xã Q đề nghị giải quyết cho vợ chồng được ly hôn vì đã ly thân nhiều năm nay; về con chung: Chị Th, anh Ch không có con chung; về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Gia đình và địa phương không nắm được.

Anh Ch vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương, hiện anh Ch không có mặt ở gia đình, địa chỉ cụ thể anh Ch không cung cấp nhưng thỉnh thoảng anh Ch có đi về và có thông tin liên lạc với gia đình. Ông Phan Tiến Y (bố đẻ của anh Ch) nhận thay anh Ch các văn bản tố tụng mà Tòa án giao và thông báo cho anh Ch biết tuy nhiên anh Ch không bày tỏ quan điểm gì.

- Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng là thể hiện không có ý thức chấp hành pháp luật tố tụng dân sự. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn giữa chị Vũ Thị Th và anh Phan Tiến Ch là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh Ch có địa chỉ cư trú tại Thôn B, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị Vũ Thị Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Phan Tiến Ch đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa mở lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân và địa chỉ nơi cư trú của bị đơn, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị Th, anh Ch được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Ch nghiện ma túy, không tu chí làm ăn. Vợ chồng đã ly thân từ khoảng cuối năm 2011 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, biết được việc chị Th xin ly hôn nhưng anh Ch không trình bày quan điểm, không giao nộp tài liệu, chứng cứ nào. Điều đó chứng tỏ anh Ch không có thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho chị Th được ly hôn anh Ch là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Không có nên không đặt ra giải quyết [4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung. Anh Ch không thể hiện quan điểm nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Th phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Th được ly hôn anh Phan Tiến Ch.

2. Về quan hệ con chung và quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra để giải quyết.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị Th phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004428 ngày 23/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Chị Th đã nộp đủ tiền án phí.

Chị Vũ Thị Th và anh Phan Tiến Ch có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 85/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:85/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về