Bản án về tranh chấp ly hôn số 77/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

 BẢN ÁN 77/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 14 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 610/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ngọc D, sinh năm 1972; cư trú tại: Số A, ấp BT, xã BP, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Có mặt)

- Bị đơn: Anh Võ Văn T, sinh năm 1972; cư trú tại: Số A, ấp BT, xã BP, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, nguyên đơn, chị Lê Thị Ngọc D trình bày: Chị và anh Võ Văn T tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có thời gian tìm hiểu khoảng 01 năm, tổ chức đám cưới vào năm 1996 nhưng sang năm 1997 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BP, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Sau đám cưới, vợ chồng sống bên gia đình chị đến khoảng năm 2002 thì cất nhà ở riêng cho đến nay. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc cho đến khi anh T bán phần đất mà cha mẹ anh T cho anh T thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Khi cất nhà, do không đủ tiền nên anh T cầm phần đất cha mẹ cho 3.000m2 được 2,5 cây vàng 24K để đem tiền về cất nhà, sau đó thì anh T bán luôn. Sau này, chị buôn bán có tiền còn anh T làm không có tiền nên mặc cảm với chị, từ đó nại ra lý do cho rằng nhờ tiền bán đất của anh T mà chị mới làm có tiền và cứ đòi lại ba công ruộng mà anh T đã bán. Sau khi bán đất khoảng 5-7 năm thì anh T cứ đòi lại đất cho đến nay, từ đó vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau. Ngoài ra, anh T thường xuyên ghen tuông vô cớ làm cho vợ chồng đã mâu thuẫn lại càng mâu thuẫn thêm. Trước đây, anh T thường xuyên đánh đập chị, đến khi chị bị bệnh từ năm 2016 đến nay thì ít đánh hơn. Hiện chị và anh T còn sống chung nhà, còn ăn cơm chung và chị vẫn còn cho tiền anh T tiêu xài nhưng chị hoàn toàn không còn tình cảm gì với anh T vì anh T vẫn thường xuyên mắng chửi, ghen tuông vô cớ nên chị không thể chung sống cùng anh T được nữa. Do đó, nay chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 02 con chung là chị Võ Ngọc Như Q, sinh năm 1999 và anh Võ Tấn P, sinh năm 1997 hiện hai con đã trưởng thành và lao động được nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Để hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn, anh Võ Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vắng mặt không có lý do tại các phiên họp.

Tại phiên tòa, chị D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin được ly hôn với anh T. Phía anh T không đồng ý ly hôn vì còn thương vợ và tài sản chung chưa được phân chia rõ ràng, nếu tài sản chia xong thì anh mới đồng ý ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Lê Thị Ngọc D và anh Võ Văn T tranh chấp về ly hôn; anh T cư trú tại ấp BT, xã BP, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì thẩm quyền giải quyết vụ án là của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy.

[2] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Hôn nhân giữa chị Lê Thị Ngọc D và anh Võ Văn T là hợp pháp vì có đăng ký và được Ủy ban nhân dân xã BP, huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 9 ngày 14-6-1997. Giữa chị D và anh T đều thống nhất mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ việc anh T bán phần đất cha mẹ cho để cất nhà, từ đó vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau về việc này như chị D đã nêu ở phần trên. Ngoài ra, chị D còn cho rằng anh T còn đánh chị, ghen tuông vô cớ, không cho chị làm đẹp và đi du lịch. Phía anh T thì cho rằng anh chỉ đánh chị D một lần và đánh đúng chứ không sai, còn việc chị D hiện nay đã mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối nhưng lại đi tập thể hình, xăm môi, mắt anh thấy không hợp lý mới không cho; chị D đi du lịch tốn nhiều tiền lại còn chịu chi phí cho cả bạn bè nên anh mới phản đối. Việc mâu thuẫn giữa hai bên, phía anh T, chị D đều thừa nhận mình không thể thay đổi tính tình để vợ chồng hòa hợp. Chị D thì cương quyết ly hôn, anh T cho rằng mình còn thương vợ nhưng không đưa ra được biện pháp nào có hiệu quả để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Thời gian thụ lý giải quyết vụ án đến nay đã lâu, Tòa án triệu tập nhiều lần để hòa giải nhưng anh T không có thiện chí hàn gắn nên đã không đến dự. Hơn nữa, tại phiên tòa anh T có ý kiến nếu việc giải quyết chia tài sản chung xong thì anh sẽ đồng ý ly hôn, điều đó đã cho thấy ý chí của anh T không muốn ly hôn là vì chưa giải quyết chia tài sản chung chứ không phải còn thương vợ. Do anh T, chị D đều không có đơn yêu cầu giải quyết chia tài sản chung và việc chia tài sản anh T có quyền khởi kiện để giải quyết sau nếu hai bên không thỏa thuận được. Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa anh T, chị D đã lớn, hai bên không còn tôn trọng, chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình đã làm cho tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị D yêu cầu được ly hôn với anh T là có căn cứ.

[3] Về con chung: Giữa chị D và anh T có 02 con chung là anh Võ Tấn P, sinh năm 1997, và chị Võ Ngọc Như Q, sinh năm 1999. Hiện anh P, chị Q đã thành niên và lao động được nên chị D, anh T không yêu cầu giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử không xét đến.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị D, anh T đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết. Nếu có tranh chấp sẽ được giải quyết sau.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị Ngọc D là nguyên đơn khởi kiện vụ án hôn nhân gia đình nên phải chịu án phí theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Ngọc D. Cho chị Lê Thị Ngọc D được ly hôn với anh Võ Văn T.

2. Về án phí: Chị Lê Thị Ngọc D phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006230 ngày 14-12- 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, nên xem như đã thi hành xong.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 77/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:77/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về