Bản án về tranh chấp ly hôn số 68/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 68/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 21 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 204/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2020/QĐXX-ST ngày 15 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1982; Cư trú tại: Ấp A, xã TL, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Xin vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Nguyễn Bá D, sinh năm 1981; Cư trú tại: Ấp B, xã TL, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, nguyên đơn, chị Nguyễn Thị B trình bày: Chị và anh Nguyễn Bá D tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, tìm hiểu nhau được khoảng 01 năm thì tổ chức đám cưới vào năm 2005. Sau đám cưới, sinh con xong thì mới tiến hành đăng ký kết hôn vào ngày 26-9-2007 tại Ủy ban nhân dân xã TL, huyện C, tỉnh Tiền Giang, vợ chồng sống cùng gia đình chị. Chị và anh D chung sống hạnh phúc được đến khoảng cuối năm 2007 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh D không quan tâm gì đến chị và con, tính tình vợ chồng không hòa hợp nên dẫn đến cự cãi nhau, từ đó tình cảm lạnh nhạt. Anh D bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống nay đã hơn 10 năm, trong khoảng thời gian đó hai bên cũng không có biện pháp gì hàn gắn, mà ngược lại còn trầm trọng hơn, không ai còn quan tâm đến ai. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh D.

Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh ngày 27-9-2006, đang ở chung với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con sau khi ly hôn vì chị đi làm công ty ở Thành phố Hồ Chí Minh có thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/tháng nên có điều kiện nuôi con. Chị không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, dù anh Nguyễn Bá D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh D không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị B, vắng mặt trong các phiên họp và tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Bá D tranh chấp về ly hôn; anh D cư trú tại ấp 5, xã TL, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì thẩm quyền giải quyết vụ án là của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy.

[2] Bị đơn, anh Nguyễn Bá D không có đơn xin xét xử vắng mặt, đã được Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; chị Nguyễn Thị B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt anh D, chị B.

[3] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Bá D là hợp pháp vì có đăng ký và được Ủy ban nhân dân xã TL, huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 95, ngày 26-9-2007. Sau khi đám cưới vào năm 2005, vợ chồng sống hạnh phúc được đến khoảng năm 2007 thì mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cự cãi nhau. Anh D về nhà cha mẹ ruột và hai bên đã không còn chung sống vợ chồng từ năm 2007 đến nay. Mặc dù thời gian đã lâu nhưng hai bên không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Anh D không đến Tòa để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị B, cũng như để hàn gắn tình cảm vợ chồng nếu như còn yêu thương vợ nên xem như anh D đã không còn quan tâm đến hôn nhân của anh và chị B và tự mình từ bỏ nghĩa vụ chứng minh. Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình” và “vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau”. Qua đó, Hội đồng xét xử nhận thấy giữa chị B và anh D đã không còn tình nghĩa vợ chồng, tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không còn nên mục đích của hôn nhân không đạt được, vì vậy yêu cầu xin ly hôn của chị B là có căn cứ.

[4] Về con chung: Giữa chị B và anh D có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh ngày 27-9-2006, hiện cháu N đang do chị B là người nuôi dưỡng, cháu N cũng có nguyện vọng được sống cùng chị B nếu cha mẹ ly hôn. Phía anh D không có ý kiến, yêu cầu gì về việc nuôi con chung. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu N cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Chị B không yêu cầu anh D cấp dưỡng, tự mình có khả năng tài chính để nuôi con nên Hội đồng xét xử xét không đặt ra xem xét, nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ việc khác.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị B là nguyên đơn khởi kiện vụ án hôn nhân gia đình nên phải chịu án phí theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị B. Cho chị Nguyễn Thị B được ly hôn với anh Nguyễn Bá D.

2. Giao cho chị Nguyễn Thị B là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh ngày 27-9-2006 sau khi ly hôn. Anh Nguyễn Bá D không phải cấp dưỡng nuôi con, do chị B chưa yêu cầu.

Anh Nguyễn Bá D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị B phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp tạm ứng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 000**33 ngày 15-5-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, nên xem như chị B đã thi hành xong án phí.

Chị Nguyễn Thị B, anh Nguyễn Bá D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 68/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:68/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về