Bản án về tranh chấp ly hôn số 67/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 67/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong các ngày 06 và 07 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 167/2022/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2022vê tranh chấp “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Hồng Đ, sinh năm 1985.

Nơi cư trú: số 119/1 đường Nguyễn Ngọc Nhựt, khu phố 1, phường 4,thành phố B, tỉnh Bến Tre.

Địa chỉ hiện tại: số 76A1 khu phố 1, Phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Ông Phạm P1, sinh năm 1977.

Nơi cư trú: số 119/1 đường Nguyễn Ngọc Nhựt, khu phố 1, phường 4,thành phố B, tỉnh Bến Tre.

Bà Đ có mặt, ông P1 vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện; bản tự khai và các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án, nguyên đơn bà Bùi Thị Hồng Đ trình bày:

Bà và ông Phạm P1 kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân phường phường 2, nay là phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre vào ngày 02/01/2014, hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn, thì thời gian đầu cuộc sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông P1 không lo đi làm, thường xuyên uống rượu, chơi bời, cờ bạc gây nợ nần. Bà và ông P1 đã ly thân được 01 năm. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông P1 nên yêu cầu xin được ly hôn.

Về con chung: bà và ông P1 có 03 con chung tên Phạm Kim N, sinh ngày 10/4/2014, Phạm Vinh T, sinh ngày 29/11/2015 và Phạm Vinh L, sinh ngày 05/3/2021. Hai con chung là Kim N và Vinh T đang sống chung với bà còn cháu Vinh L đang sống với cha mẹ ruột của bà ở Thành phố H nên bà yêu cầu được trực tiếp nuôi cả 03 con chung. Bà có mở 01 tiệm làm tóc, có đăng ký kinh doanh, có tham gia bảo hiểm nhân thọ thu nhập ổn định, do đó bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 03 con chung, không yêu cầu ông P1 cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: bà và ông P1 không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải bị đơn ông Phạm P1 trình bày:

Ông thống nhất với lời trình bày của bà Bùi Thị Hồng Đ về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, Đ năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà Đ làm tiệm gội đầu có nhiều khách hỏi thăm chuyện cá nhân, gia đình nên ông và bà Đ phát sinh mâu thuẫn nên đã ly thân với nhau. Tuy nhiên, ông nhận thấy vợ chồng không có mâu thuẫn lớn nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: ông và bà Đ có 03 người con chung như bà Đ trình bày. Nếu Tòa án cho ông và bà Đ ly hôn thì ông yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con chung là Kim N và Vinh T, cháu Vinh L giao cho bà Đ trực tiếp nuôi, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: ông và bà Đ không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật: Những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn tuân thủ đúng quy định pháp luật. Về nội dung: đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Bùi Thị Hồng Đ; giao 03 con chung cho bà Đ trực tiếp nuôi dưỡng, ông P1 không cấp dưỡng; về tài sản chung và nợ chung không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Bà Bùi Thị Hồng Đ khởi kiện ông Phạm P1 yêu cầu ly hôn nên xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này là “tranh chấp ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Phạm P1 là bị đơn cư trú tại thành phố B, tỉnh Bến Tre nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng:

Ông Phạm P1 là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng ông P1 vắng mặt nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông P1 theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung yêu cầu khởi kiện:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: bà Bùi Thị Hồng Đ và ông Phạm P1 kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân phường 2, nay là phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre vào ngày 02/01/2014, hôn nhân tự nguyện nên đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bà Đ cho rằng nguyên nhâu mâu thuẫn là do ông P1không lo đi làm, thường xuyên uống rượu, chơi bời, cờ bạc gây nợ nần còn ông P1 cho rằng mâu thuẫn giữa ông bà là do bà Đ làm tiệm gội đầu có nhiều khách hỏi thăm chuyện cá nhân, gia đình nên phát sinh mâu thuẫn và mâu thuẫn giữa hai người là không lớn. Hội đồng xét xử xét thấy, bà Đ và ông P1 đều xác định là giữa hai bên có phát sinh mâu thuẫn. Tuy nhiên, hai bên không tìm cách tháo gỡ dẫn Đ việc bà Đ và ông P1 đã ly thân với nhau. Từ đó cho thấy, mâu thuẫn giữa bà Đ và ông P1 là có thật làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án, tòa án cũng đã mời ông P1 Đ để hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng ông P1 vắng mặt, điều đó chứng tỏ ông P1 cũng không muốn hàn gắn tình cảm với bà Đ. Do đó, hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Bùi Thị Hồng Đ với ông Phạm P1 là phù hợp.

[3.2] Về con chung: bà Đ và ông P1 có 03 con chung tên Phạm Kim N, sinh ngày 10/4/2014, Phạm Vinh T, sinh ngày 29/11/2015 và Phạm Vinh L, sinh ngày 05/3/2021. Bà Đ yêu cầu được nuôi cà 03 con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Ông P1 yêu cầu được nuôi hai con chung là Kim N và Vinh T, giao cháu Vinh L cho bà Đ nuôi, không ai phải cấp dưỡng.

Xét thấy, tại phiên hòa giải ngày 14/6/2022, bà Đ và ông P1 đều xác nhận cháu Vinh L đang sống với cha mẹ ruột của bà Đ tại Thành phố H và thống nhất giao cháu Vinh L cho bà Đ trực tiếp nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với hai con chung là Kim N và Vinh T, bà Đ và ông P1 đều yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, tại tại phiên hòa giải ngày 14/6/2022, bà Đ và ông P1 cũng xác nhận hai con chung đang sống tại phường 4 và do ông P1 đưa rước đi học. Tuy nhiên, theo biên bản hỏi ý kiến con ngày 11/7/2022, cháu Kim N trình bày là đang sống chung với bà Đ và có nguyện vọng được tiếp tục sống với bà Đ. Tòa án đã tống đạt quyết định yêu cầu bà Đ và ông P1 cung cấp chứng cứ để chứng minh bản thân có điều kiện tốt để nuôi con chung (điều kiện về kinh tế, tin thần…). Tuy nhiên, ông P1 không cung cấp chứng cứ gì cho Tòa án, cũng không Đ tham gia phiên hòa giải, không tham gia phiên tòa và không trình bày thêm ý kiến gì khác. Bà Đ cho rằng bà Đ có mở 01 tiệm làm tóc, có đăng ký kinh doanh, có tham gia bảo hiểm nhân thọ thu nhập ổn định do đó bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 03 con chung và cung cấp giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh do bà Đ đứng tên và cung cấp hợp đồng bảo hiểm nhân thọ do bà Bùi Thị Hồng Đ là người mua bảo hiểm.

Hội đồng xét thấy, bà Đ có đủ điều kiện kinh tế để nuôi con chung, hiện tại con chung là cháu Vinh L đang sống cùng cha mẹ của bà Đ, các con chung còn lại đang sống với bà Đ, và cháu Kim N cũng có nguyện vọng được sống chung với mẹ. Do đó, Hội đồng xét xử giao 03 con chung cho bà Đ tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận bà Đ không yêu cầu ông P1 cấp dưỡng nuôi con chung.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: bà Đ và ông P1 khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Lời phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về nội dung giải quyết vụ án là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, bà Đ phải nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các điều 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Bùi Thị Hồng Đ, bà Bùi Thị hồng Đ được ly hôn ông Phạm P1.

2. Về con chung: giao 03 con chung tên Phạm Kim N, sinh ngày 10/4/2014, Phạm Vinh T, sinh ngày 29/11/2015 và Phạm Vinh L, sinh ngày 05/3/2021 cho bà Bùi Thị Hồng Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận bà Đ không yêu cầu ông P1 cấp dưỡng nuôi con.

Ông Phạm P1 được quyền Đ thăm chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: bà Bùi Thị Hồng Đ và ông Phạm P1 khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, bà Bùi Thị Hồng Đ phải nộp nhưng được khấu trừ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005398 ngày 24 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

6. Bà Bùi Thị Hồng Đ được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với ông Phạm P1 vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 67/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:67/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về