Bản án về tranh chấp ly hôn số 64/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 64/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 148/2022/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2022, về tranh chấp“Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/6/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23/6/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm: 1997; Địa chỉ: thôn P1, xã H, thị xã Đ, Phú Yên.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Quang S, sinh năm: 1997;

Địa chỉ: khu phố 2, phường P, thành phố T, Phú Yên.

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi (N) và anh Nguyễn Quang S tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường P, thành phố T vào năm 2019. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc một thời gian sau đó thì phát sinh mâu thuẫn; vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02/2022 cho đến nay. Nay thấy tình cảm không còn, nên tôi làm đơn xin ly hôn với anh S.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Quang N, sinh ngày 21/4/2021. Hiện con đang sống cùng anh S. Từ lúc vợ chồng sống ly thân đến nay, anh S không cho tôi thăm con nên tôi rất nhớ con. Hiện tại con đang còn rất nhỏ, rất cần sự chăm sóc của mẹ, nên khi ly hôn tôi xin được nuôi con và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con, vì tôi có đủ khả năng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn anh Nguyễn Quang S trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi (S) thống nhất theo trình bày của chị N về thời gian, nơi đăng ký kết hôn và nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn. Nay thấy tình cảm không còn, chị N xin ly hôn thì tôi đồng ý.

- Về con chung: Có 01 con chung như chị N trình bày. Hiện con đang sống cùng tôi. Ly hôn, nguyện vọng của tôi là xin được nuôi con và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Vì hiện tại con còn bị bệnh, hàng tháng còn phải dẫn đi Sài Gòn tái khám nên tôi không yên tâm giao con cho chị N trực tiếp nuôi, tôi muốn đảm bảo sức khỏe của con trước rồi mới giao con cho chị N. Do đó, tôi đề nghị Tòa tạo điều kiện cho chúng tôi hòa giải thêm lần nữa, để tôi về có thời gian suy nghĩ thêm; sau lần hòa giải thứ hai nên vẫn không thống nhất được thì đề nghị Tòa xử theo quy định pháp luật.

- Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.

* Tại phiên tòa: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, xin được ly hôn với bị đơn; về con chung, xin nuôi con chung là Nguyễn Quang N, sinh ngày 21/4/2021, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Quang S đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N và bị đơn anh Nguyễn Quang S tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường P, thành phố T vào năm 2019, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc một thời gian sau đó thì phát sinh mâu thuẫn; vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02/2022 cho đến nay. Nay thấy tình cảm không còn nên nguyên đơn làm đơn xin ly hôn với bị đơn. Tại biên bản hòa giải ngày 23/5/2022, bị đơn cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của nguyên đơn. Xét thấy: Mâu thuẫn giữa nguyên đơn và bị đơn đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bị đơn cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn được ly hôn với bị đơn.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Quang N, sinh ngày 21/4/2021. Hiện con đang sống cùng bị đơn. Ly hôn, nguyên đơn xin được nuôi con và không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy: Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên theo quy định của pháp luật. Vợ chồng phải thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con. Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình thì “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Mặc dù, hiện con đang sống cùng bị đơn và bị đơn cũng có nguyện vọng xin nuôi con nhưng nguyên đơn và bị đơn không thỏa thuận được người trực tiếp nuôi con; trong khi đó con mới được 15 tháng tuổi, còn rất nhỏ, rất cần sự chăm sóc của người mẹ nên để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con, HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao con cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng là có căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Do nguyên đơn không yêu cầu nên bị đơn không phải cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 59, 81, 82, 83, 84, 107 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tuyết N được ly hôn anh Nguyễn Quang S.

- Về con chung: Giao 01 con chung tên là Nguyễn Quang N, sinh ngày 21/4/2021 (hiện đang sống cùng bị đơn anh Nguyễn Quang S) cho nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Quang S không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu số 0005175 ngày 13/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 64/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về