Bản án về tranh chấp ly hôn số 629/2022/HNGĐ-ST

 TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 629/2022/HNGĐ-ST NGÀY 02/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 02 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 106/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 151/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 99/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Huỳnh G, sinh năm 2000 Địa chỉ thường trú: Số 17 Đường D, Khu A, Khu dân cư Phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ cư trú: D2/U16 Kênh Trung Ương, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Bùi Thế H, sinh năm 2000 Địa chỉ: Số 17 Đường D, Khu A, Khu dân cư Phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ nguyên đơn bà Đặng Thị Huỳnh G trình bày:

Bà và và ông Bùi Thế H tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy chứng nhận kết hôn số 122, ngày 27/10/2020). Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến đầu năm 2021 mâu thuẫn phát sinh vì đời sống chung không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cải vã với nhau; ông H không đi làm, không quan tâm chăm sóc gia đình, ham chơi bỏ bê con cái, tính tình gia trưởng còn có hành vi bạo lực đối với vợ nên đời sống hôn nhân luôn luôn căng thẳng, ngột ngạt và đã ly thân từ tháng 01/2021 cho đến nay, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Dù bà G đã nhiều lần khuyên nhủ, cố gắng hàn gắn hạnh phúc nhưng không thành, nay tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Đặng Thị Huỳnh G yêu cầu được ly hôn với ông Bùi Thế H.

Về nuôi con chung: Bà G xác định vợ chồng có 01 (một) con chung tên Bùi Minh K, sinh ngày 20/9/2020. Hiện trẻ Khang vẫn đang sống với bà Giao, do bà G trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Ngoài ra, vợ chồng không còn con chung, con nuôi nào khác. Bà Đặng Thị Huỳnh G yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu ông Bùi Thế H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà G xác định quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Bùi Thế H đã được Tòa án tống đạt, triệu tập nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể thu thập được lời khai và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã tuân thủ đúng thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến khi xét xử; Bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Bị đơn ông Bùi Thế H đã được Tòa án triệu tập để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải mà vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và không tiến hành hòa giải được theo Điều 207 và Điều 208 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đng thời, ông H đã được triệu tập đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Nguyên đơn bà Đặng Thị Huỳnh G có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Khoản 2 Điều 227 và Khoản 1, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét đơn khởi kiện của bà Đặng Thị Huỳnh G thì đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, do bị đơn ông Bùi Thế H cư trú tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

[3] Về các yêu cầu của đương sự:

[3.1] Xét thấy, bà Đặng Thị Huỳnh G và ông Bùi Thế H tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận phù hợp với Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.2] Xét yêu cầu của bà G xin được ly hôn với ông H vì mâu thuẫn đã phát sinh từ năm 2021 do đời sống chung không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cải vã với nhau; ông H không đi làm, không quan tâm chăm sóc gia đình, ham chơi bỏ bê con cái, tính tình gia trưởng còn có hành vi bạo lực đối với vợ nên đời sống hôn nhân luôn luôn căng thẳng, ngột ngạt và đã ly thân từ tháng 01/2021 cho đến nay, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng phải xuất phát từ hai phía, cả hai phải có sự thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau, cùng giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt, cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Thế nhưng, giữa bà G và ông H đã không còn sự thương yêu, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau mà người nào chỉ biết bổn phận người đó, mạnh ai nấy sống. Mặc dù, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông H đến Tòa để tạo điều kiện cho vợ chồng hòa giải, đoàn tụ, hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng ông H vẫn vắng mặt điều này thể hiện ông H không còn tha thiết đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình. Tình cảm vợ chồng đã không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh trầm trọng trong một thời gian dài, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà G là có căn cứ phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.3] Về nuôi con chung: Bà G yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Bùi Minh K, sinh ngày 20/9/2020, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Bà G cho rằng hiện trẻ K vẫn đang sống với bà Giao, do bà G trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Xét thấy, trẻ K dưới 36 tháng tuổi đây là độ tuổi còn rất nhỏ, chưa thể tự chăm sóc được bản thân, đang vào giai đoạn học ăn, học nói... học hình thành nhân cách nên cần có sự chăm sóc đặc biệt của người mẹ, theo quy định tại Khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và Gia đình đã quy định “con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi...”. Mặt khác, ông H cũng không đến Tòa nên cũng không thể hiện được ý kiến của ông về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Do đó, để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con chung, việc giao con chung cho bà G tiếp tục nuôi con, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho ông H cho đến khi bà G có yêu cầu là có căn cứ phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Ông Bùi Thế H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai có quyền ngăn cản theo quy định tại các Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và Gia đình.

[3.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà G xác định trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Xét, ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào Luật Phí và Lệ phí năm 2015; Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng.

[6] Quyền kháng cáo: Bà Đặng Thị Huỳnh G và ông Bùi Thế H có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 207, Điều 208, Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 và Khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào Luật Phí và Lệ phí năm 2015;

Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ vào Luật thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của nguyên đơn bà Đặng Thị Huỳnh G.

Về hôn nhân: Bà Đặng Thị Huỳnh G được ly hôn ông Bùi Thế H. (Giấy chứng nhận kết hôn số 122 do Ủy ban nhân dân Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 27/10/2020 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật).

Về nuôi con chung: Giao 01 (một) con chung tên Bùi Minh K, sinh ngày 20/9/2020 cho bà Đặng Thị Huỳnh G trực tiếp nuôi con. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho ông Bùi Thế H cho đến khi bà G có yêu cầu. Ngoài ra, vợ chồng không còn con chung, con nuôi nào khác.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích, Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con..

Về tài sản chung và nợ chung: Bà G xác định trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Đặng Thị Huỳnh G phải chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số AA/2021/ 0016332 ngày 21 tháng 01 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà G đã thi hành xong phần án phí dân sự sơ thẩm.

Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Về Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự; Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014)./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 629/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:629/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về