Bản án về tranh chấp ly hôn số 614/2020/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 614/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Vào ngày 04-12-2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 468/2020/TLST-HNGĐ ngày 07-10-2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24-11-2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1986; số chứng minh nhân dân: 162570223; đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường Đ, phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đường X, phường Y, thành phố N, tỉnh Nam Định. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Lã Việt T, sinh năm 1986; số chứng minh nhân dân: 162709560; đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu NC, phường D, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đường B, phường C, quận G, thành phố Hồ Chí Minh. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện nộp ngày 07-10-2020 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là chị Trần Thị L trình bày:

Chị và anh Lã Việt T tổ chức lễ cưới trên cơ sở tự nguyện vào năm 2013, có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 03 năm trước khi kết hôn. Hai bên có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 21-10-2014.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng gia đình anh Lã Việt T tại địa chỉ: Khu NC, phường D, thành phố N, tỉnh Nam Định. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận trong khoảng 02 năm đầu tiên, sau đó thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do chị khó có con. Vợ chồng cũng đã cố gắng khắc phục mâu thuẫn, gia đình hai bên cũng đã động viên, hòa giải nhưng vợ chồng không khắc phục được. Từ năm 2016 vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay. Hiện tại, chị Trần Thị L xác định tình cảm giữa chị và anh Lã Việt T không còn, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Không có.

Tài sản chung và nghĩa vụ của vợ chồng: Chị Trần Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tại bản tự khai ngày 09-11-2020, bị đơn là anh Lã Việt T trình bày:

Anh và chị Trần Thị L có thời gian tìm hiểu nhau, sau đó đã tổ chức lễ cưới trên cơ sở tự nguyện vào năm 2012. Hai bên có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại địa chỉ: Khu NC, phường D, thành phố N, tỉnh Nam Định. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Giữa hai bên đã xảy ra cãi nhau vài lần và đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Hiện tại, anh Lã Việt T đồng ý ly hôn với chị Trần Thị L.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung và nghĩa vụ của vợ chồng: Anh Lã Việt T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

1.1. Về tranh chấp được giải quyết trong vụ án:

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là chị Trần Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Lã Việt T, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nghĩa vụ chung của vợ chồng. Bị đơn là anh Lã Việt T không có yêu cầu phản tố. Do vậy quan hệ tranh chấp trong vụ án được xác định là ly hôn.

1.2. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

Tại đơn khởi kiện, chị Trần Thị L ghi nơi cư trú của bị đơn là anh Lã Việt T tại địa chỉ: Khu NC, phường D, thành phố N, tỉnh Nam Định. Sau khi Tòa án tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, bị đơn là anh Lã Việt T có bản tự khai trình bày hiện tại đang cư trú tại địa chỉ: Đường B, phường C, quận G, thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên anh Lã Việt T có đơn thỏa thuận lựa chọn Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định là Tòa án giải quyết vụ án ly hôn. Vì vậy căn cứ điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định tiếp tục giải quyết, xét xử vụ án là đúng thẩm quyền.

1.3. Về sự có mặt của các đương sự trong vụ án:

Nguyên đơn là chị Trần Thị L và bị đơn là anh Lã Việt T đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp trong vụ án:

2.1. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Trần Thị L và anh Lã Việt T có thời gian tìm hiểu nhau trước và tổ chức lễ cưới trên cơ sở tự nguyện vào năm 2013, hai bên có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 21-10-2014. Như vậy, hôn nhân giữa chị L và anh T là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, chị L và anh T chung sống với nhau tại địa chỉ: Khu NC, phường D, thành phố N, tỉnh Nam Định. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc cho đến khoảng năm 2015 thì bắt đầu có mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và chị L khó có khả năng sinh con. Mặc dù hai bên đã tìm biện pháp khắc phục mâu thuẫn nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Hiện tại cả chị L và anh T đều đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh T ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không còn trên thực tế, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ áp dụng điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để xử ly hôn giữa chị Trần Thị L và anh Lã Việt T.

2.2. Về con chung:

Chị Trần Thị L và anh Lã Việt T không có con chung.

2.3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung của vợ chồng:

Chị Trần Thị L và anh Lã Việt T đều có quan điểm không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nghĩa vụ chung của vợ chồng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí:

Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV thì án phí trong vụ án sẽ được quyết định như sau:

Chị Trần Thị L là nguyên đơn trong vụ án nên phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm chị L đã nộp khi khởi kiện sẽ được khấu trừ vào án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.

1. Xử ly hôn giữa chị Trần Thị L và anh Lã Việt T.

2. Án phí:

Chị Trần Thị L phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Được trừ vào tiền tạm ứng án phí ly hôn chị Trần Thị L đã nộp tại biên lai số 0003229 ngày 07-10-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định. Chị Trần Thị L đã nộp đủ án phí.

3. Quyền kháng cáo:

Chị Trần Thị L và anh Lã Việt T có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 614/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:614/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về