Bản án về tranh chấp ly hôn số 55/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 55/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN A

Ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 128/2022/TLST – HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên Tòa số 24/2022/QĐST- HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyn Thị Diễm D, sinh ngày 16/02/2000 (Có mặt)

Địa chỉ: ấp A, xã P, huyện D, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 12/02/1996 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp T, Thị trấn D, huyện D, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 24/02/2022, bản tự khai ngày 25/3/2022 và trong quá trình hòa giải, xét xử, nguyên đơn chị Đ trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đ quen biết tìm hiểu nhau khoảng 02 năm, sau đó hai bên tự nguyện tiến tới hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, cưới nhau năm 2018 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thị trấn Bình Đại vào năm 2018. Thời gian đầu sống chung có hạnh phúc nhưng đến tháng 8 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh Đ cờ bạc, không lo cho gia đình vợ con, không đi làm, nên dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi, dù chị nhiều lần khuyên năn nhưng anh vẫn không sửa đổi, sau đó có hàn gắn lại nhưng đến tháng 01/2022 vợ chồng tiếp tục cự cãi và ly thân luôn từ tháng 01/2022 đến nay, hiện chị sống bên nhà mẹ ruột. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu ly hôn với anh Đ.

- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên NGuyễn Minh K, sinh ngày 18/3/2019, hiện đang sống với chị, khi ly hôn chị yêu cầu nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: kng có.

- Tại phiên Tòa: Chị Đ vẫn giữ yêu cầu khởi kiện không thay đổi gì.

* Tại bản tự khai ngày 20/4/2022, biên bản hòa giải và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Đ trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất phần trình bày của chị Đ nhưng theo anh xác định trước đó vợ chồng có cự cãi nhau nhưng anh đã sửa đổi không còn cờ bạc và từ tháng 01/2022 đến nay vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nghiêm trọng và ly thân từ tháng 01/2022 đến nay, vợ anh sống bên nhà mẹ ruột. Nay anh xác định vẫn còn tình cảm với chị Đ và muốn hàn gắn, nên anh không đồng ý ly hôn.

- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên NGuyễn Minh K, sinh ngày 18/3/2019, hiện đang sống với chị Đ, nếu trường hợp phải ly hôn thì anh đồng ý để chị Đ nuôi và không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: kng có.

* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tuân theo đúng quy định của pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên Tòa là không thực hiện theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đ đối với anh Đ. Về con chung: Đề nghị giao cháu NGuyễn Minh K, sinh ngày 18/3/2019 cho chị Đ nuôi dưỡng. Ghi nhận chị Đ không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1]. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Minh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử, nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt anh là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đ và anh Đ cưới nhau vào năm 2018 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thị trấn Bình Đại vào năm 2018 theo đúng quy định của pháp luật, nên quan hệ hôn nhân giữa chị Đ và anh Đ được công nhận hợp pháp.

Nay chị Đ yêu cầu ly hôn, anh Đ không đồng ý ly hôn vì anh còn thương vợ con. Hội đồng xét xử xét thấy:

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trong đó có biên bản xác minh tại chính quyền địa phương cũng như lời khai của chị Đ và anh Đ đều xác định được cuộc sống vợ chồng của anh chị đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Đ cờ bạc, không lo cho gia đình vợ con, nên dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi và đã ly thân từ tháng 01 năm 2022 đến nay, chị Đ đã về nhà mẹ ruột ở; trong thời gian ly thân chủ yếu gặp nhau để thăm con chứ vẫn không hàn gắn được.

Anh Đ xác định còn thương vợ nên muốn xin cơ hội hàn gắn, Tòa án cũng đã nhiều lần tạo điều kiện cho hai bên thêm thời gian để tìm cách hàn gắn lại tình cảm, nhưng cho đến nay vẫn không thể hàn gắn lại được. Qua đó, có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa anh chị Đ và anh Đ đã không còn quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân của anh và chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị Đ là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về nuôi con chung: Trong quá trình sống chung giữa chị Đ và anh Đ có 01 con chung tên NGuyễn Minh K, sinh ngày 18/3/2019, hiện đang sống với chị, khi ly hôn chị yêu cầu nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy: Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu K, xét thấy từ trước đến nay cháu K đều sống với chị Đ, việc chị Đ nuôi con chung vẫn phát triển bình thường nên để nhằm ổn định về tinh thần của con chung anh và chị, cần để cháu K cho chị Đ nuôi dưỡng, điều này anh Đ cũng đồng ý, nên sự thỏa thuận này cũng phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị Đ.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đ nuôi con chung nhưng không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con, nên được Hội đồng xét xử ghi nhận và không xét đến.

[5]. Về tài sản chung: Chị Đ và anh Đ khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[6]. Về nợ chung: Chị Đ và anh Đ khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[7]. Đối với lời trình bày của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại về quan điểm giải quyết vụ án: phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8]. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Chị Nguyễn Thị Diễm D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Diễm D đối với anh Nguyễn Minh Đ.

Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Diễm D và anh Nguyễn Minh Đ.

Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Diễm D và anh Nguyễn Minh Đ chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung NGuyễn Minh K, sinh ngày 18/3/2019 cho chị Nguyễn Thị Diễm D trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Ghi nhận sự tự nguyện chị Nguyễn Thị Diễm D nuôi con chung không yêu cầu anh Nguyễn Minh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Minh Đ không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị Nguyễn Thị Diễm D trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Nguyễn Minh Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84, Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định việc thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Hai bên khai không có, nên không xét đến.

4. Về nợ chung: Hai bên khai không có, nên không xét đến.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị Diễm D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Đ đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005975 ngày 08 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Như vậy, chị Nguyễn Thị Diễm D đã nộp đủ án phí.

Chị Nguyễn Thị Diễm D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Nguyễn Minh Đ vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 55/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về