Bản án về tranh chấp ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 05 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án, thụ lý số: 89/2022/TLST-HN, ngày 22/3/2022, về việc "Tranh chấp Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 25 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2022/QĐST-DS ngày 10 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thanh T, sinh năm 1984 (Có mặt). Địa chỉ: khóm T, phường H, thành phố V, tỉnh V. Tạm trú: khóm P, phường H, thành phố V, tỉnh V.

- Bị đơn: Ông Phùng Văn Th, sinh năm 1972 (Vắng mặt). Địa chỉ: khóm T, phường H, thành phố V, tỉnh V.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai tiếp theo của nguyên đơn bà Huỳnh Thanh T trình bày:

Bà T và ông Th tự tìm hiểu nhau một năm thì đi đến hôn nhân nhưng không tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào ngày 08/7/2011 tại UBND xã H (nay là phường H), thành phố V, tỉnh V. Sau khi kết hôn bà và ông Th sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ vấn đề kinh tế của gia đình, mỗi bên đều có tham gia chơi cờ bạc, không chăm sóc gia đình vợ chồng không còn quan tâm nhau nên tình cảm vợ chồng từ đó không còn hạnh phúc. Ông Th nhiều lần ghen tuông, dẫn đến hai bên cải vã, cuộc sống vợ chồng thêm mâu thuẫn. Ông bà đã ly thân từ năm 2019 đến nay. Do bà và ông Th không thể hàn gắn đoàn tụ với nhau được và cũng không còn tình cảm với nhau, vì vậy bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Bà T và ông Th có 01 con chung là cháu Phùng H, sinh ngày 23/02/2010. Khi ly hôn bà T yêu cầu nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con hàng tháng. Hiện nay bà T mua bán vé số, thu nhập bình quân 10.000.000đ, đủ để nuôi con.

Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với ông Th.

Về phía bị đơn ông Phùng Văn Th trình bày: Về quan hệ hôn nhân, ông thống nhất lời khai của bà T. Ông bà có đăng ký kết hôn vào ngày 08/7/2011 tại UBND xã H (nay là phường H), thành phố V, tỉnh V. Quá trình chung sống, ông bà sống hạnh phúc khoảng 2 năm thì không hòa hợp do mâu thuẫn về kinh tế tiền bạc, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, hai bên đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Bà T xin ly hôn ông Th đồng ý do vợ chồng không còn tình cảm với nhau, không thể hàn gắn.

Về con chung: Bà T và ông Th có 01 con chung là cháu Phùng H, sinh ngày 23/02/2010. Hiện cháu H đang do bà T chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn ông Th yêu cầu nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con hàng tháng. Hiện nay ông Th làm nghề lái xe bán tải chở gạch, thu nhập bình quân 7.000.000đ, ngoài ra ông Th còn làm nghề chạy honda chở khách thuê, thu nhập đủ để nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, ông Th vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được qui định tại Điều 28, 35 và 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Phùng Văn Th được tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không rõ lý do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Bà T và ông Th tự nguyện tìm hiểu nhau đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông bà hợp pháp. Sau khi đăng ký kết hôn ông bà cũng có thời gian sống hạnh phúc nhưng đến khi xảy ra mâu thuẫn thì ông bà không cùng nhau giải quyết và hàn gắn tình cảm vợ chồng được. Tại tòa, bà T trình bày ông bà đã sống ly thân từ năm 2019, bà không còn tình cảm với ông Thiện nên không thể đoàn tụ. Về phía ông Th tại tòa vắng mặt nhưng có ý kiến tại phiên hòa giải đồng ý ly hôn, xét mâu thuẫn vợ chồng của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T là phù hợp quy định pháp luật.

[4] Về con chung: Bà T và ông Th có 01 con chung là cháu Phùng H, sinh ngày 23/02/2010. Tại phiên hòa giải, bà T và ông Th đều có yêu cầu nuôi con sau khi ông bà ly hôn. Nguyện vọng của cháu H muốn được sinh sống cùng mẹ sau khi cha mẹ ly hôn. Tại tòa ông Th vắng mặt, bà T vẫn giữ yêu cầu được nuôi con sau ly hôn, Hội đồng xét xử nhận thấy, cháu H hiện do bà T trực tiếp nuôi dưỡng, cháu có nguyện vọng được ở với mẹ, xét cần đảm bảo ổn định tâm lý, chỗ ở và điều kiện học tập của cháu để con trẻ được phát triển trong điều kiện tốt nhất là cần thiết, nên chấp nhận yêu cầu của bà T giao cháu H cho bà T nuôi dưỡng là phù hợp. Ông Th có quyền xin thay đổi nuôi con nếu xét thấy cần thiết và phải thực hiện thủ tục xin thay đổi theo quy định pháp luật. Ghi nhận tự nguyện bà T không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.

[5] Về tài sản chung: Bà T và ông Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[6] Về nợ chung: Bà T và ông Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bà Huỳnh Thanh T phải chịu án phí theo qui định của pháp luật;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Huỳnh Thanh T. Bà Huỳnh Thanh T được ly hôn với ông Phùng Văn Th.

2. Về con chung: Giao cháu Phùng H, sinh ngày 23/02/2010 là con chung của ông Th và bà T cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Thúy không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Bà Huỳnh Thanh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm. Bà T được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí nộp ngày 08/3/2022 theo biên lai thu số N0 0001074 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vĩnh Long. Bà T đã nộp đủ.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về