Bản án về tranh chấp ly hôn số 51/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HOÀ, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 51/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04/6/2021, Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 14/2021/HNGĐ ngày 14/01/2021 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/5/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 51/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 21/5/2021 giữa:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Thanh X – Sinh năm: 1972 Địa chỉ: Tổ dân phố 18, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Văn T − Sinh năm: 1972 Địa chỉ: Tổ dân phố 18, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X trình bày:

Tôi và ông Trần Văn T kết hôn năm 1998 tại UBND thị trấn N, huyện N (Nay là phường N, thị xã N), tỉnh Khánh Hòa. Trong thời gian chung sống với nhau, giữa tôi và ông T xảy ra nhiều mâu thuẫn, do tính tình không hòa hợp, vợ chồng thường xuyên kình cãi, ông T thường xuyên cờ bạc, không lo làm ăn, gây ra nhiều nợ nần, không quan tâm đến cuộc sống gia đình khiến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Dù tôi đã nhiều lần hàn gắn và khuyên nhủ nhưng vẫn không được. Nay cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn, tình cảm của tôi dành cho ông T không còn nên tôi yêu cầu được ly hôn với ông T. Về con chung: Tôi và ông T có 02 con chung là Trần Hữu T – sinh ngày: 28/8/1998, Trần Nguyên K– sinh ngày: 23/01/2010, con chung Trần Hữu T đã trưởng thành, tôi yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Trần Nguyên K và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: chúng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có.

* Bị đơn ông Trần Văn T mặc dù đã được tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vẫn cố tình vắng mặt nên không có lời khai trong vụ án.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì. Tại phiên tòa, ông Trần Văn T đã được tòa tống đạt, hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình vắng mặt không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn và cho bà Nguyễn Thị Thanh X được ly hôn ông Trần Văn T.

+ Về con chung: Giao con chung là Trần Nguyên K – sinh ngày: 23/01/2010 cho bà Nguyễn Thị Thanh X trực tiếp nuôi dưỡng và bà X không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

+ Về tài sản chung: Bà X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

+ Về án phí: bà Nguyễn Thị Thanh X phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về phần thủ tục tố tụng: Ông Trần Văn T là bị đơn trong vụ án, Tòa án đã tiến hành tống các văn bản tố tụng cho ông T nhưng ông T vẫn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, vì vậy HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thanh X và ông Trần Văn T tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện N (Nay là phường N, thị xã N), tỉnh Khánh Hòa cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 13 ngày 20/01/1998, do vậy đây là hôn nhân hợp pháp. Qua các tài liệu có trong hồ sơ và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống chung của vợ chồng bà X, ông T nhiều mâu thuẩn, ông T thường xuyên cờ bạc, không lo làm ăn, gây ra nhiều nợ nần, không quan tâm đến cuộc sống gia đình khiến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và bà Xuân đã nhiều lần hàn gắn nhưng không được. Mặc khác, Tòa án đã tiến hành tống đạt các quyết định nhiều lần nhưng ông T từ chối nhận văn bản và không đến tham gia phiên tòa, chứng tỏ ông T không muốn hàn gắn tình cảm gia đình. Như vậy, có đủ căn cứ xác định vợ chồng không còn tin tưởng, yêu thương nhau, chăm sóc lẫn nhau, do vậy yêu cầu xin ly hôn của bà X là có cơ sở để chấp nhận.

[3] Về con chung: Tại phiên tòa, bà X yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu: Trần Nguyên K – sinh ngày: 23/01/2010. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Khôi còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ nên cần giao cho mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc và nguyện vọng của cháu là muốn ở với mẹ, xét thấy đây là yêu cầu phù hợp nên chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Bà X không yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về án phí: Bà X phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X.

1. Về hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị Thanh X được ly hôn ông Trần Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Nguyên K – sinh ngày: 23/01/2010 cho bà Nguyễn Thị Thanh X trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Bà X không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết cha, mẹ có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Thanh X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thanh X phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0004763 ngày 12 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Bà X đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 51/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về