Bản án về tranh chấp ly hôn số 47/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 47/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 16 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 131/2021/TLST-HNGĐ, ngày 31 tháng 3 năm 2021, về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 30 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị D, sinh năm 1992. (Xin vắng mặt) HKTT: Tổ 7, thôn 5, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

2. Bị đơn: Anh Lâm Văn C, sinh năm 1984. (Xin vắng mặt) HKTT: Tổ 7, thôn 5, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 15/3/2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hoàng Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lâm Văn C tự nguyện tìm hiểu tiến tới quan hệ hôn nhân từ năm 2010; đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng nhận kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung hay xảy ra cãi vã. Vợ chồng đã sống ly thân không thể hàn gắn nên chị yêu cầu ly hôn với anh C.

Về con chung: Chị và anh C có 02 con chung là Lâm Thị Hồng D1, sinh ngày 24/11/2010 và Lâm Thị Hồng Q, sinh ngày 16/8/2016. Chị có nguyện vọng để anh C trực tiếp nuôi dưỡng các con chung, không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh C tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Lâm Văn C quá trình giải quyết trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh xác nhận về quan hệ hôn nhân giữa anh và chị Hoàng Thị D như chị D trình bày là đúng, nhưng không đồng ý về nguyên nhân mâu thuẫn gia đình như chị D trình bày. Theo anh vợ chồng không xảy ra mâu thuẫn gia đình gì trầm trọng, nhưng kể từ khi chị D đi làm công nhân ở thành phố Đồng Xoài khoảng gần một năm nay thì anh thấy tình cảm chị D giành cho anh không được như trước, có thể trong thời gian đi làm ở bên ngoài chị D nảy sinh tình cảm với người con trai khác. Trong khoảng thời gian chị D đi làm công nhân anh vẫn gọi điện hỏi thăm chị D nhưng chị D cũng không thay đổi tình cảm. Anh cũng đã nói sự việc này cho cha mẹ của anh và chị D biết. Cha mẹ hai bên cũng đã gọi điện cho chị D để khuyên bảo nhưng chị D cũng không thay đổi ý định. Kể từ thời gian đó đến nay thỉnh thoảng chị D mới về nhà thăm các con vài lần rồi lại đi làm ở thành phố Đồng Xoài. Nay anh thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng, anh còn thương yêu chị D, mong muốn đoàn tụ gia đình nhưng chị D cương quyết ly hôn anh cũng không thể níu kéo, anh cần thêm chút thời gian để hàn gắn với chị D trước khi Tòa án tiến hành phiên họp và hòa giải. Trường hợp chị D không thay đổi tình cảm thì anh đề nghị Tòa án giải quyết vụ việc theo quy định pháp luật.

Về con chung: Anh xác nhận có 02 con chung là Lâm Thị Hồng D1, sinh ngày 24/11/2010 và Lâm Thị Hồng Q, sinh ngày 16/8/2016. Hiện nay các con chung đang do anh đang trực tiếp nuôi dưỡng. Anh có nguyện vọng đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên, trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D thì anh có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng các con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh vẫn tôn trọng chị D, để chị D về thăm nom các con và tự nguyện chu cấp cho các con.

Về tài sản, nợ chung: Anh và chị D có tài sản chung và nợ chung nhưng tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.

* Tại biên bản xác minh tình trạng mâu thuẫn gia đình ngày 30/6/2021 giữa Tòa án nhân dân huyện B với đại diện ban quản lý thôn nơi anh C chị D sinh sống và ông Hoàng Đình D2 là cha ruột của nguyên đơn chị Hoàng Thị D thể hiện: Anh C chị D xảy ra mâu thuẫn gia đình, nguyên nhân là do vợ chồng không thống nhất được với nhau trong công việc làm ăn, nghi ngờ trong chuyện tình cảm khi chị D đi làm công nhân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết nguyên đơn và bị đơn đều có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, việc làm đơn của các đương sự là tự nguyện nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 227 và Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu ly hôn của chị Hoàng Thị D: Chị Hoàng Thị D và anh Lâm Văn C tự nguyện tìm hiểu tiến tới hôn nhân, được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 24, quyển số 01/2010 ngày 14/4/2010. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh C là hôn nhân là hợp pháp, theo quy định tại Khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000, hiện nay là Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị D và anh C chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không thông cảm chia sẻ với nhau trong công việc gia đình, nghi ngờ một bên có quan hệ tình cảm với người khác khi chị D đi làm công nhân tại thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước cho đến nay. Trong thời gian chị D đi làm công nhân phía anh C cũng cố gắng đoàn tụ gia đình, phía gia đình chị D và anh C cũng tác động hòa giải nhưng anh C chị D không hàn gắn được tình cảm, mâu thuẫn trở nên trầm trọng nên chị D khởi kiện yêu cầu được ly hôn.

Quá trình giải quyết vụ án anh C có nguyện vọng đoàn tụ gia đình, nhưng chị D cương quyết ly hôn. Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ gia đình cho anh C chị D, phân tích hậu quả pháp việc hòa giải đoàn tụ nhưng chị D không đồng ý đoàn tụ gia đình theo nguyện vọng của anh C. Quá trình chuẩn bị xét xử phía anh C cũng không có biện pháp hàn gắn, giải quyết mâu thuẫn vợ chồng.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định mâu thuẫn giữa chị D và anh C là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2014 nên yêu cầu ly hôn của chị D là có cơ sở cần được chấp nhận.

[3] Về con chung: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai các đương sự thể hiện chị D và anh C có 02 con chung là Lâm Thị Hồng D1, sinh ngày 24/11/2010 và Lâm Thị Hồng Q, sinh ngày 16/8/2016. Hiện nay các con chung đang do anh C trực tiếp nuôi dưỡng. Quá trình giải quyết vụ án anh C và chị D đều thống nhất anh C có nghĩa vụ nuôi dưỡng các con chung không yêu cầu cấp dưỡng;

con chung của anh C chị D cũng có nguyện vọng ở với anh C. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển của con chưa thành niên, cần thiết giao các con chung của anh C chị D cho anh C nuôi dưỡng; chị D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại các Điều 81, Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật hôn nhân & gia đình năm 2014. Các đương sự không yêu cầu giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không ai yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a Khoản 5 Nghị quyết số 326/ 2016/ UBTVQH16 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82; Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân & gia đình năm 2014.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hoàng Thị D đối với bị đơn Lâm Văn C; chị Hoàng Thị D được ly hôn với anh Lâm Văn C.

2. Về con chung: Giao các con chung Lâm Thị Hồng D1, sinh ngày 24/11/2010 và Lâm Thị Hồng Q, sinh ngày 16/8/2016 cho anh Lâm Văn C trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con chung thành niên.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Bên không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị D phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp trước là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 016121 ngày 31/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bình Phước.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 47/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:47/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về