Bản án về tranh chấp ly hôn số 46/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 16 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 161/2021/TLST – HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2021, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Phạm Thị N, sinh năm 1990 – Có mặt

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đ, sinh năm 1990 - Có mặt

Cùng địa chỉ: Tổ 3, khu phố Ninh Thuận, thị trấn Lộc Ninh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị N trình bày:

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị N và anh Nguyễn Đ tự nguyện kết hôn vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND phường An Lộc, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

Trước khi kết hôn vợ chồng có tìm hiểu nhau trong thời gian khoảng 02 năm. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại khu phố Ninh Thuận, thị trấn Lộc Ninh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

Vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 01 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 4/2021 cho đến nay. Nhận thấy vợ chồng không thể sống chung được nữa nên chị Ng xin được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Phạm Nhật H, sinh ngày 05/02/2018, khi ly hôn chị N yêu cầu nuôi con, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng không nợ ai, cũng không ai nợ lại.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Đ trình bày:

Về hôn nhân: Anh Đ thống nhất với chị N về quan hệ hôn nhân. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm, không ai quan tâm đến ai nữa. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 5/2021 tới nay. Nay chị N xin ly hôn thì anh Đạt đồng ý.

Về con chung: Thống nhất với lời trình bày của chị Nương, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Phạm Nhật H, sinh ngày 05/02/2018. Khi ly hôn anh Đ có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị N cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc xác định mối quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thực hiện thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, thời hạn xét xử chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh không có kiến nghị về tố tụng.

- Về nội dung: Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Đ.

- Về con chung: Cháu Nguyễn Phạm Nhật H , sinh ngày 05/02/2018. Tính đến nay cháu H được 3 tuổi 5 tháng, để đảm bảo cho cháu có cuộc sống ổn định, phát triển bình thường cần được sự chăm sóc của người mẹ hơn, đề nghị giao cháu Huy cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N không yêu cầu nên không xem xét.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về pháp luật tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị N có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh đề nghị giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Thành Đ. Xét thấy anh Đ cư trú tại tổ 3, khu phố Ninh Thuận, thị trấn Lộc Ninh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Đối với yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy chị Nương và anh Đạt tự nguyện đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 10/9/2015 của Uỷ ban nhân dân phường An Lộc, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước nên có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Nương và anh Đạt là hợp pháp.

[3] Đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Nương, Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án, chị N trình bày vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 01 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 4/2021 cho đến nay. Anh Đ cũng thống nhất với nội dung chị N trình bày. Vợ chồng không còn tình cảm với nhau, nên không hàn gắn được. Nay chị N xin ly hôn thì anh Đạt cũng đồng ý ly hôn.

Tại phiên tòa chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và xác định không còn tình cảm với anh Đ. Anh Đ cũng đồng ý ly hôn. Do đó căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử cho chị N được ly hôn với anh Đ.

[4] Về con chung: Chị N và anh Đ có 01 con chung tên Nguyễn Phạm Nhật H, sinh ngày 05/02/2018. Khi ly hôn chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh Đ trình bày: Khi ly hôn anh Đ yêu cầu được trực tiếp con. Không yêu cầu chị N cấp dưỡng.

Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do chị N và anh Đ cung cấp thể hiện: Anh Đ làm việc tại Nông trường I, Công ty TNHH một thành viên cao su Lộc Ninh và làm thêm tại Hộ kinh doanh Hoàng Bách tại thị xã Bình Long. Tổng thu nhập mỗi tháng khoảng 23.000.000đ.

Chị N cung cấp bảng lương làm việc tại Công ty TNHH một thành viên Bé Lan với thu nhập từ 17.000.000đ – 18.000.000đ. Ngoài ra chị N còn kinh doanh quầy thuốc Tây. Thu nhập bình quân trên 20.000.000đồng/tháng.

Hội đồng xét xử xét thấy: Anh Đ và chị N đều có công việc ổn định, với mức thu nhập của chị N và anh Đ đều đảm bảo cho cuộc sống của cháu H, tuy nhiên Cháu Nguyễn Phạm Nhật H, sinh ngày 05/02/2018. Tính đến nay cháu H được 3 tuổi 5 tháng, xét thấy cháu H tuổi vẫn còn nhỏ. Để đảm bảo cho cháu có cuộc sống ổn định, phát triển bình thường, cần được sự chăm sóc của người mẹ hơn. Do vậy, chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là có căn cứ và cần được chấp nhận. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao con chung cho chị N trực dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu nên không xem xét.

[5]. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy chị N phải chịu số tiền án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

[8]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 39 Bộ luật dân sự;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Mỹ Nương;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Đ.

2. Về con chung: Giao con tên Nguyễn Phạm Nhật H, sinh ngày 05/02/2018 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét .

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Buộc chị Phạm Thị N phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí chị N đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh theo biên lai thu tiền số 019702 ngày 12/5/2021.

6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 46/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về