Bản án về tranh chấp ly hôn số 45/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 45/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 06 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 593/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18/4/2022 giữa:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị P, sinh năm 1985 Địa chỉ: 150/1/3 hẻm 150, tổ 13, ấp 3, xã A1, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Hồ Văn A, sinh năm 1986 Địa chỉ: 178/20/3 tổ 6, ấp 6, xã A1, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

(Đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và ông Hồ Văn A kết hôn với nhau vào năm 2007 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A1, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 124, quyển số 01, ngày 24/12/2007.

Trong quan hệ hôn nhân giữa hai chúng tôi thường xuyên xảy ra những mâu thuẫn, xung đột, bất hòa về tình cảm vợ chồng, cũng như tất cả các mối quan hệ sinh hoạt hàng ngày. Trên thực tế giữa tôi và ông Hồ Văn A đã sống ly thân 8 năm qua. Xét thấy hôn nhân giữa hai chúng tôi không đạt được từ nhiều nguyên nhân phức tạp, không thể có cơ hội hàn gắn được, tôi không còn tình cảm với ông A. Do vậy tôi yêu cầu Toà án giải quyết cho tôi được ly hôn với ông A.

Về con chung: Tôi và ông A có 02 con chung là Hồ Ngọc B – sinh ngày 17/10/2008, Hồ Ngọc T – sinh ngày 28/6/2012.

Cả hai con chung đang do tôi nuôi dưỡng, ly hôn tôi yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai con chung, không yêu cầu ông A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

- Bị đơn ông Hồ Văn A đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đến làm việc, tham gia phiên họp công khai chứng cứ, phiên hòa giải, phiên tòa nhưng ông A đều vắng mặt nên không có lời khai.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị P.

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị P được ly hôn với ông Hồ Văn A.

+ Về con chung:

Giao con chung Hồ Ngọc B – sinh ngày 17/10/2008, Hồ Ngọc T – sinh ngày 28/6/2012 cho bà Trần Thị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục sau ly hôn.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm thời ông Hồ Văn A không phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

+ Về án phí: Bà P phải chịu án phí ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Trần Thị P có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Hồ Văn A đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà P và ông A.

[2] Về quan hệ pháp luật: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn” quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị P và ông Hồ Văn A tự nguyện kết hôn, được UBND xã A1, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 124, quyển số 01, ngày 24/12/2007. Căn cứ Điều 9, Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, xác định hôn nhân giữa bà Trần Thị P và ông Hồ Văn A là hôn nhân hợp pháp.

Nguyên đơn bà P khởi kiện yêu cầu ly hôn với lý do tình trạng hôn nhân giữa bà và ông A là trầm trọng, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn rất nghiêm trọng trong cuộc sống; hai người đã sống ly thân. Bà P xác định không còn tình cảm với ông A và yêu cầu xin ly hôn với ông A.

Tòa án đã xác minh tại địa phương (xã A1, huyện Long Thành) về tình trạng hôn nhân của bà P, ông A, kết quả như sau: Về mâu thuẫn giữa bà P và ông A địa phương không nắm rõ, tuy nhiên hiện này bà P và ông A không còn chung sống với nhau.

Bị đơn ông Hồ Văn A đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đến làm việc, tham gia phiên họp công khai chứng cứ, phiên hòa giải, phiên tòa nhưng ông A đều vắng mặt, cũng không có ý kiến phản hồi về các nội dung theo đơn khởi kiện của nguyên đơn. Điều này cho thấy ông A không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân với bà P nữa, không có thiện chí hòa giải để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ với nhau. Do ông A không đến tham gia tố tụng tại Tòa án, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; căn cứ khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án giải quyết vụ án theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Theo tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án xác định tình trạng hôn nhân giữa bà P và ông A là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị P về việc xin ly hôn với ông Hồ Văn A.

[3.2] Về con chung:

Bà P và ông A có 02 con chung là Hồ Ngọc B – sinh ngày 17/10/2008, Hồ Ngọc T – sinh ngày 28/6/2012. Theo lời khai của bà P và xác nhận của chính quyền địa phương thì hiện nay bà P đang trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Cả hai con chung đều có nguyện vọng được sống với bà P.

Ông Hồ Văn A không đến Tòa án tham gia tố tụng; không có ý kiến, yêu cầu gì về con chung, từ đó cho thấy ông A không có thiện chí hòa giải về vấn đề chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không có nguyện vọng nuôi con chung. Do vậy có cơ sở nào để giao con chung cho bà P nuôi dưỡng.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét quyết định giao hai chau cháu Hồ Ngọc B, Hồ Ngọc T cho bà P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà P không yêu cầu, nên tạm thời ông A không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà P xác định không có tài sản chung và nợ chung. Mặt khác do chưa có lời khai của ông Hồ Văn A, nên không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Bà Trần Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp hôn nhân gia đình theo quy định.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 91, 147, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 9, Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị P.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị P được ly hôn với ông Hồ Văn A.

2. Về con chung: Giao con chung Hồ Ngọc B – sinh ngày 17/10/2008, Hồ Ngọc T – sinh ngày 28/6/2012 cho bà Trần Thị P trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Hồ Văn A có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở ông A thực hiện quyền này.

Tạm thời ông Hồ Văn A không phải cấp dưỡng nuôi con.

Vì quyền lợi của con chung chưa thành niên, các bên được quyền thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Bà Trần Thị P phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp hôn nhân gia đình. Số tiền 300.000đ tạm ứng án phí bà P đã nộp, theo Biên lai thu số 0004866 ngày 08/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành được trừ vào tiền án phí bà P phải chịu. Bà P đã nộp xong.

5. Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 45/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về