Bản án về tranh chấp ly hôn số 45/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH – TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 45/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 446/2020/TLST – HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2021/QĐST-HPT ngày 17 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hà Thị Huyền M M , sinh năm 1994 – Có mặt

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Long P, sinh năm 1988 – Vắng mặt

Cùng địa chỉ: Ấp Hiệp Th, xã Lộc H, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Hà Thị Huyền M M trình bày:

Về hôn nhân: Bà Hà Thị Huyền M M và ông Nguyễn Long P tự nguyện kết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

Trước khi kết hôn vợ chồng có tìm hiểu nhau trong thời gian khoảng 3 năm. Sau khi kết hôn vợ chồng sống cùng với gia đình chồng tại xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2014, thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, ông P nhiều lần đánh bà M nên cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Bà M và ông P đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Hiện nay bà P đang sống cùng với mẹ ruột tại ấp Hiệp Thành, xã Lộc Hiệp. Sau khi sống ly thân nhưng ông P vẫn thường xuyên tới nhà bà Hà Thị S (mẹ ruột bà M ) kiếm chuyện chửi bới và xúc phạm gia đình bà M . Nay nhận thấy vợ chồng không thể sống chung được nữa nên bà M xin được ly hôn với ông P.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Hà Ánh N, sinh ngày 22/5/2013; Nguyễn Hà Linh N1, sinh ngày 25/12/2014. Các con đang sống cùng với bà M . Tại đơn khởi kiện, bà M yêu cầu được nuôi dưỡng cả 02 con chung. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà M xin được nuôi con tên Nguyễn Hà Ánh N, sinh ngày 22/5/2013, giao con tên Nguyễn Hà Linh N1, sinh ngày 25/12/2014 cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện bà M không có mang thai, vợ chồng không có con nuôi.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Bà M và ông P không nợ ai, cũng không ai nợ lại.

Bị đơn ông Nguyễn Long P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ bản tự khai, bị đơn ông P trình bày:

Về hôn nhân: Ông P thống nhất với bà M về quan hệ hôn nhân. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, cãi nhau, thỉnh thoảng vợ chồng có đánh nhau. Ông P bà M sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Tuy N1ên, bà M yêu cầu ly hôn với ông P thì ông P không đồng ý ly hôn vì còn thương vợ con.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Hà Ánh N, sinh ngày 22/5/2013 và Nguyễn Hà Linh N1, sinh ngày 25/12/2014. Trong trường hợp nếu Tòa án cho bà M ly hôn thì ông P có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Hà Linh N1 sinh ngày 25/12/2014. Giao con tên Nguyễn Hà Ánh N, sinh ngày 22/5/2013 cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc xác định mối quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thực hiện thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, thời hạn xét xử chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh không có kiến nghị về tố tụng.

- Về nội dung: Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Thị Huyền M M .

- Về hôn nhân: Cho bà Hà Thị Huyền M M được ly hôn với ông Nguyễn Long P

- Về con chung: Giao con tên Nguyễn Hà Linh N1, sinh ngày 25/12/2014 cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con tên Nguyễn Hà Ánh N, sinh ngày 22/5/2013 cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không ai yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung: Không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về pháp luật tố tụng: Nguyên đơn bà Hà Thị Huyền M M có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh đề nghị giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Long P. Xét thấy ông P cư trú tại Ấp Hiệp Thành, xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Đối với yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy bà M và ông P tự nguyện đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 20/11/2012 của Uỷ ban nhân dân xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước nên có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà M và ông P là hợp pháp.

[3] Đối với yêu cầu xin ly hôn của bà M , Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án, bà M trình bày vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm, ông P nhiều lần đánh bà M , thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Bà M và ông P đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay, bà M đang sống cùng với mẹ ruột tại ấp Hiệp Thành, xã Lộc Hiệp. Sau khi sống ly thân nhưng ông P vẫn thường xuyên tới nhà bà Hà Thị S (mẹ ruột bà M ) kiếm chuyện chửi bới và xúc phạm gia đình bà M . Ông P cũng thừa nhận rằng vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường cãi nhau và đánh nhau. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà M thì ông P không đồng ý ly hôn vì ông P vẫn còn thương vợ con.

Tại phiên tòa bà M vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và xác định không còn tình cảm với ông P, vợ chồng đã sống ly thân được 04 năm. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, ông P cũng thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn. Xét thấy bà M và ông P đã sống ly thân từ năm 2017 cho tới nay cho thấy thời gian đã kéo dài nhưng vợ chồng vẫn không tìm được tiếng nói chung, không ai quan tâm đến cuộc sống của ai, không thể hàn gắn được. Như vậy, có căn cứ để xác định tình trạng hôn nhân giữa bà M và ông P đã trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà M .

[4]. Về con chung: Bà M và ông P có 02 con chung tên Nguyễn Hà Ánh N, sinh ngày 22/5/2013 và Nguyễn Hà Linh N1, sinh ngày 25/12/2014. Khi ly hôn bà M có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hà Ánh N, giao cháu Nguyễn Hà Linh N1 cho ông P nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu.

Xét thấy tại bản tự khai ông P trình bày: Trong trường hợp nếu Tòa án cho ông và bà M ly hôn thì ông yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Hà Linh N1. Giao con tên Nguyễn Hà Ánh N cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Nguyễn Hà Linh N1 cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Hà Ánh N cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không ai yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy bà M phải chịu số tiền án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

[8]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 39 Bộ luật dân sự;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị Huyền M M ;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Hà Thị Huyền M M được ly hôn với ông Nguyễn Long P.

2. Về con chung: Giao con tên Nguyễn Hà Linh N1, sinh ngày 25/12/2014 cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con tên Nguyễn Hà Ánh N, sinh ngày 22/5/2013 cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không ai yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Buộc bà Hà Thị Huyền M M phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí bà M đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh theo biên lai thu tiền số 0001479 ngày 31/12/2020.

6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 45/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về