Bản án về tranh chấp ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 234/2022/TLST-HNGĐ ngày 19/4/2022 về việc “Tranh chấp ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 55/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/6/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 84/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đ giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Ý T, sinh năm: 1981;

Địa chỉ: Số 42/12 (số mới x) HBT, Phường y, thành phố Đ.

- Bị đơn: Anh Trần Hữu Đ, sinh năm: 1980;

Địa chỉ: Số 26 ĐĐ, Phường z, thành phố Đ.

(Chị T có mặt tại phiên tòa, anh Đ vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/4/2022 và lời khai của nguyên đơn chị Phan Ý T trình trình bày:

Anh chị kết hôn năm 2003 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân Phường z, thành phố Đ cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 25/12/2003.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ anh Đ tại số 26 ĐĐ, Phường z, thành phố Đ.

Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đến năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, anh Đ ham chơi cờ bạc, không quan tâm chăm sóc gia đình mà còn đánh chị. Mâu thuẫn gia đình hai bên cũng hòa giải nhưng không hàn gắn được. Từ đầu năm 2017 thì vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không ai quan tâm đến ai.

Nay chị xác định không còn tình cảm với anh Đ nên đề nghị ly hôn.

Về con chung có 02 con chung là Trần Nhật A, sinh ngày 05/12/2004 và Trần Nhật Ng, sinh ngày 30/4/2013. Từ năm 2017 sống ly thân thì hai con chung ở với chị, một mình chị lo cho hai con còn anh Đ cũng không hỏi han hay đến thăm vợ con.

Hiện nay chị đang làm nhân viên buồng phòng cho khách sạn, thu nhập 7.000.000đ/tháng nên đủ lo cho các con. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi hai con chung và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Còn anh Đ thì làm thợ sơn nước thu nhập không ổn định, công việc cũng không được thường xuyên.

Về tài sản chung và nợ chung: không có. Ngoài ra, chị không trình bày gì thêm.

Đối với bị đơn anh Trần Hữu Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do nên không có lời khai của anh Đ trong hồ sơ vụ án.

Do anh Đ vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Trần Hữu Đ; về con chung chị đề nghị được nuôi 02 con chung là Trần Nhật A, sinh ngày 05/12/2004 và Trần Nhật Ng, sinh ngày 30/4/2013 và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng nhận định:

Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán từ khi nhận đơn khởi kiện đến khi thụ lý tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, đương sự và thu thập chứng cứ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự còn bị đơn không chấp hành và không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị T. Về con chung: giao con chung Trần Nhật A, sinh ngày 05/12/2004 và Trần Nhật Ng, sinh ngày 30/4/2013 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn chị T và bị đơn anh Đ có đăng ký kết hôn, nay chị T có đơn yêu cầu được ly hôn với anh Đ; hiện nay bị đơn anh Đ sinh sống và làm việc tại Phường z, thành phố Đ. Vì vậy, cần xác định quan hệ tranh chấp là: “Tranh chấp ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với bị đơn anh Trần Hữu Đ đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh Đ vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án theo quy định chung.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của chị Phan Ý T thì thấy rằng:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Chị T và anh Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam và đã được Ủy ban nhân dân Phường z, thành phố Đ cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 25/12/2003. Quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Đ là có trên thực tế và hai người đã có 02 con chung.

Tuy nhiên, theo chị T thì vợ chồng chỉ hạnh phúc một thời gian ngắn, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, anh Đ ham chơi cờ bạc, không quan tâm chăm sóc gia đình mà còn đánh chị. Từ đầu năm 2017 thì vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không ai quan tâm đến ai.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Đ không có mặt tại phiên hòa giải cũng như phiên tòa, thể hiện thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hàn gắn gia đình.

Tòa án đã tiến hành xác minh chính quyền địa phương ngày 27/5/2022 (bút lục số 30) về mâu thuẫn hôn nhân của chị T và anh Đ thì chính quyền địa phương không nắm rõ vì chị T và anh Đ không báo lên chính quyền địa phương. Tuy nhiên, chị T và anh Đ không sống chung từ khoảng năm 2017 đến nay. Việc nuôi dạy con chung của chị T và anh Đ là tốt.

Xét thấy, theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, … và lý do chính đáng khác”.

Theo chị T thì từ năm 2017 đến nay anh Đ sống ở nhà bố mẹ của anh Đ còn chị và các con chuyển về nhà bố mẹ chị ở Phường y, thành phố Đ sinh sống. Từ đó đến nay anh Đ không đến thăm vợ con, không quan tâm, chăm sóc nhau, người nào chỉ biết bổn phận người đó.

Hội đồng xét xử nhận thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh Đ đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không có, do đó chị T yêu cầu được ly hôn với anh anh Đ là có cơ sở chấp nhận.

[2.2] Về con chung:

Chị T xác nhận chị và anh Đ có 02 con chung là Trần Nhật A, sinh ngày 05/12/2004 và Trần Nhật Ng, sinh ngày 30/4/2013. Khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung.

Xét về nguyện vọng của con chung: Theo bản tự khai ngày 18/5/2022 của cháu Trần Nhật A (Bút lục số 25) và cháu Trần Nhật Ng (Bút lục số 26) thì cả hai cháu đều có nguyện vọng được ở với “mẹ” là chị T.

Xét thấy các con chung đã sống với chị T từ trước tới nay, chị T cũng có nguyện vọng được nuôi con chung, cháu A và cháu Ng đều có nguyện vọng được sống với mẹ nên để đảm bảo sự phát triển ổn định mọi mặt của các con chung, Hội đồng xét xử cần giao hai con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp.

Chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con; Quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để tuyên xử theo hướng nhận định nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về án phí sơ thẩm:

Nguyên đơn chị Phan Ý T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, 55, 56, 57, 58 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phan Ý T về việc “Tranh chấp ly hôn” với đối với bị đơn anh Trần Hữu Đ. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn chị Phan Ý T và bị đơn anh Trần Hữu Đ được ly hôn.

2. Về con chung:

Giao con chung Trần Nhật A, sinh ngày 05/12/2004 và Trần Nhật Ng, sinh ngày 30/4/2013 cho chị Phan Ý T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi;

Quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con; Quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí:

Chị Phan Ý T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp thay theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001730 ngày 18/4/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Phan Ý T có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Riêng anh Trần Hữu Đ vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 - Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về