Bản án về tranh chấp ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 06 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 28/2022/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐXX-ST ngày 27 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983 Nơi cư trú: Thôn Dược H, xã Tiên D, huyện Sóc Sơn, Tp.Hà Nội

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1977 Nơi cư trú: Thôn Dược H, xã Tiên D, huyện Sóc Sơn, Tp.Hà Nội Có mặt chị H, vắng mặt anh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 08/11/2021 và các lời khai theo nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã Tiên D, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội ngày 07/7/2003. Sau khi kết hôn, chị về làm dâu và sống chung cùng mẹ con anh T vài tháng thì vợ chồng sống riêng tại thôn Dược H, xã Tiên D, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống, vợ chồng sống không hạnh phúc do anh T thường xuyên uống rượu về đánh chửi chị vô cớ, đập phá đồ đạc, không quan tâm, chăm sóc vợ con. Tháng 7/2021, chị phải đi Viện chữa u tuyến giáp, anh T không đưa chị đi viện mà còn đánh đuổi chị ra khỏi nhà. Trong thời gian chị điều trị tại bệnh viện, anh T không đến thăm, chăm sóc gì chị. Sau khi ra viện, chị về nhà bố mẹ đẻ sống, anh T có qua nhà gọi chị về nhưng chị không về. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc, chị xin ly hôn anh T để ổn định cuộc sống.

- Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Quang C, sinh ngày 21/8/2004 và Nguyễn Thu T, sinh ngày 02/8/2005. Hiện cháu C đang ở với anh T, cháu T đang ở với chị. Ly hôn, chị đề nghị giữ nguyên tình trạng nuôi dưỡng các cháu như hiện nay và không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, đất nông nghiệp, công nợ, công sức đóng góp: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại bản tự khai ngày 26/01/2022 thể hiện: Anh không đồng ý ly hôn, ngoài ra anh không trình bày quan điểm về bất kỳ vấn đề gì khác và không đến Tòa án làm việc. Tòa án đã phối hợp cùng Chính quyền địa phương đến nhà làm việc với anh T nhưng anh T vắng nhà. Vì vậy Tòa án không ghi được lời khai của anh T.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại gia đình của anh T, bà Nguyễn Thị Đ, mẹ đẻ anh T cho biết: Anh T đang sống cùng bà tại thôn Dược H, xã Tiên D, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội. Năm 2003, gia đình bà tổ chức đám cưới cho anh T, chị H theo phong tục, tập quán tại địa phương, anh chị đăng ký kết hôn tại UBND xã Tiên D. Sau khi kết hôn, chị H về làm dâu và chung sống cùng mẹ con bà thời gian ngắn, cuộc sống vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn do anh T tính tình cục cằn, khi uống rượu về thì vợ chồng hay cãi vã, đánh nhau. Đến khoảng giữa năm 2021, trước khi chị H đi bệnh viện trị u tuyến giáp, vợ chồng lại xảy ra xô xát, anh T không đưa chị H đi viện, cũng không chăm sóc. Sau khi ra viện, chị H về nhà mẹ đẻ sống, bà cũng đã gọi điện nhưng chị H không về. Khi biết chị H xin ly hôn, gia đình bà đã nhiều lần khuyên nhủ, hòa giải cho anh chị nhưng anh chị chấp nhau từng câu nói, không tìm được tiếng nói chung nên không có kết quả. Nay chị H làm đơn xin ly hôn anh T, bà đề nghị Tòa án hòa giải cho anh chị, nếu không được thì đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

- Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Quang C, sinh ngày 21/8/200 và Nguyễn Thu T, sinh ngày 02/8/2005. Hiện cháu C đang ở với anh T, cháu T đang ở với chị H. Trường hợp Tòa án giao cho anh T nuôi con, bà sẽ tạo điều kiện về chỗ ở và hỗ trợ anh T chăm sóc con. Anh T làm tự do, thu nhập từ 200.000đ – 250.000đ/ngày.

- Về tài sản và các vấn đề khác: Bà không có ý kiến gì.

* Đại diện Viển kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng: Kể từ ngày nhận đơn, thụ lý vụ án, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã không thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, Điều 35, Điều 39 và khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án đề nghị HĐXX:

+ Về tình cảm: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H, cho chị H được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

+ Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thu T, sinh ngày 02/8/2005 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; giao con chung là Nguyễn Quang C, sinh ngày 21/8/2004 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị H không đề nghị giải quyết.

+ Về tài sản chung, đất nông nghiệp, công sức đóng góp, nợ chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị H không đề nghị giải quyết.

+ Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền: Bị đơn là anh Nguyễn Văn T đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại thôn Dược H, xã Tiên D, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[1.2] Về sự vắng mặt của anh Nguyễn Văn T: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên toà nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã Tiên D, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận kết hôn số 52 ngày 07/7/2003. Hôn nhân giữa chị H, anh T là hợp pháp.

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Sau khi kết hôn, chị H, anh T sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do anh T thiếu sự quan tâm, yêu thương vợ con, nhiều lần uống bia rượu về đập phá đồ đạc, đánh chửi chị H vô cớ, nhất là khi chị H bị bệnh rất cần sự quan tâm, chia sẻ và chăm sóc của chồng con, gia đình nhưng anh T không những không quan tâm, chăm sóc mà còn đánh đuổi, bỏ mặc chị H khiến tình cảm vợ chồng phai nhạt, không hạnh phúc. Quá trình giải quyết vụ án, anh T không đồng ý ly hôn nhưng anh không đến Tòa án tham gia hòa giải để vợ chồng cùng bình tĩnh nhìn nhận lại bản thân, sửa chữa những sai lầm thiếu sót, từng bước hàn gắn quan hệ vợ chồng mà còn có thái độ bỏ mặc, không hợp tác. Đồng thời qua xác minh tại địa phương, nơi anh chị cư trú xác nhận mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị H, anh T có 02 con chung là Nguyễn Quang C, sinh ngày 21/8/2004 và Nguyễn Thu T, sinh ngày 02/8/2005.

Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án không lấy được lời khai của anh T nên không xác định được quan điểm của anh T về vấn đề con chung. Tuy nhiên căn cứ vào điều kiện thực tế của anh chị Hội đồng xét xử thấy, chị H, anh T đều có nơi cư trú và thu nhập đủ để đảm bảo cuộc sống của bản thân và nuôi con. Đồng thời cháu T đang sống ổn định cùng chị H, cháu C đang sống ổn định cùng anh T và nguyện vọng của các cháu phù hợp với cuộc sống hiện tại cùng bố, mẹ. Vì vậy để đảm bảo sự phát triển tốt nhất cả về thể chất lẫn tinh thần, tránh những xáo trộn không cần thiết ảnh hưởng đến tâm lý trẻ cần tiếp tục giao cháu T cho chị H và giao cháu C cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục và tự các bên đảm nhiệm việc nuôi con là phù hợp.

[2.3] Về tài sản chung, đất sản xuất nông nghiệp, công sức đóng góp, nợ chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 143, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[2.5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, 272 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Điều 143, 147, 227, 267, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Điều 25, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H. Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thu T, sinh ngày 02/8/2005 cho chị H; giao con chung là Nguyễn Quang C, sinh ngày 21/8/2004 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục và tự hai bên đảm nhiệm việc nuôi con đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác có hiệu lực pháp luật của Tòa án thay thế.

Chị H, anh T được quyền thăm và chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, đất sản xuất nông nghiệp, nợ và công sức đóng góp: Ghi nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2020/0004636 ngày 04/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về