Bản án về tranh chấp ly hôn số 35/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 35/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17/8/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân thị xã Kinh Môn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số 71/2021/TLST-HNGĐ ngày 08/4/2021 về việc tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/7/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2021/QĐST-HNGĐ ngày 30/7/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Ngô Thị G1, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn HN1, xã AH1, huyện AD1, thành phố Hải Phòng.

Bị đơn: Anh Đinh Văn C1, sinh năm 1991; địa chỉ: Khu dân cư HT1, phường HT2, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.

Chị G1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh C1 vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ, nguyên đơn chị Ngô Thị G1 trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Đinh Văn C1, sinh năm 1991 vào ngày 09 tháng 11 năm 2015 trên cơ sở tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã HT2 - nay là phường HT2, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Sau ngày cưới chị về ngay gia đình anh C1 chung sống. Vợ chồng ăn chung và ở cùng nhà với bố mẹ anh C1 đến đầu năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh C1 chơi bời cờ bạc dẫn đến nợ tiền dân xã hội và thường xuyên bỏ nhà đi trốn nợ. Chị và gia đình đã nhiều lần động viên, khuyên bảo nhưng anh C1 không chịu sửa đổi. Do mâu thuẫn căng thẳng nên chị đã về gia đình bố mẹ đẻ tại thôn HN1, xã AH1, huyện AD1, thành phố Hải Phòng sống ly thân với anh C1 từ đầu năm 2020 đến nay. Vợ chồng không còn quan tâm, liên lạc gì với nhau. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng và kéo dài nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đinh Văn C1.

- Quan hệ về con chung: Vợ chồng chị có 01 con là Đinh Quỳnh C2, sinh ngày 26/8/2016. Hiện con đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con và tự nguyện không yêu cầu anh C1 phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

- Quan hệ về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - anh Đinh Văn C1 mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc, trình bày quan điểm của mình.

Theo lời khai có trong hồ sơ, người làm chứng - bà Vũ Thị Lý trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà là mẹ đẻ của anh Đinh Văn C1, là mẹ chồng chị Ngô Thị G1. Hai anh chị kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký tại UBND xã HT2 vào năm 2015. Sau ngày cưới vợ chồng chung, làm ăn vui vẻ tại gia đình bà. Quá trình chung sống tại đây anh chị phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh C1 mải chơi, nợ nần xã hội. Sau Tết 2021 thì chị G1 tự ý bỏ về gia đình bố mẹ đẻ sống ly thân với anh C1, gia đình bà không ai đánh đuổi chị G1. Nay chị G1 làm thủ tục ly hôn anh C1, bà mong muốn anh chị quay về đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con chung, còn việc có về chung sống được với nhau hay không là do anh chị quyết định.

- Quan hệ về con chung: Anh Đinh Văn C1 và chị Ngô Thị G1 có 01 con là Đinh Quỳnh C2, sinh ngày 26/8/2016. Hiện cháu Chi đang do chị G1 trực tiếp nuôi dưỡng. Nay ly hôn chị G1 tự nguyện không yêu cầu anh C1 phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, bà không có ý kiến gì.

- Quan hệ về tài sản chung: Vợ chồng anh C1, chị G1 không có tài sản gì chung.

Tại biên bản làm việc và xác minh các ngày 09/4/2021 và 24/6/2021 chính quyền địa phương phường HT2 cung cấp:

- Về việc giao các văn bản tố tụng của tòa án: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn đã nhiều lần gửi văn bản tố tụng và giấy triệu tâp cho anh Đinh Văn C1 nhưng anh C1 đều vắng mặt tại Tòa án.

- Về nơi cư trú của anh Đinh Văn C1: Anh Đinh Văn C1, sinh ngày 16/8/1991 đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Khu dân cư HT1, phường HT2, thị xã Kinh Môn. Anh Đinh Văn C1 chưa làm thủ tục cắt khẩu tại địa phương. Hiện anh Đinh Văn C1 làm nghề lao động tự do, vẫn đang sinh sống tại địa phương.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Đinh Văn C1 trước đây đi làm công nhân ở ngoài Hải Phòng sau đó quen và yêu chị Ngô Thị G1. Anh chị làm thủ tục đăng ký kết hôn vào ngày 09/11/2015 tại UBND phường HT2. Sau ngày cưới chị G1 về ngay gia đình anh C1 chung sống tại khu dân cư HT1, phường HT2. Thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc, gia đình hòa thuận, không xảy ra mâu thuẫn. Đến khoảng năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh C1 chơi bời cờ bạc, nợ nần nhiều ngoài xã hội nên thường xuyên phải trốn nợ. Qua nắm bắt tình hình địa phương thì thi thoảng anh C1 có về gia đình nhưng chỉ về tranh thủ vì sợ bị đòi nợ. Do mâu thuẫn căng thẳng nên chị G1 đã bỏ về gia đình bố mẹ ở bên Hải Phòng sinh sống từ đầu năm 2020 đến nay. Chị G1, anh C1 sống ly thân nhau từ nhiều năm nay vì anh C1 thường xuyên bỏ đi trốn nợ, rất ít khi về nhà. Nay chị G1 có đơn xin ly hôn anh C1 chính quyền địa phương xác định mâu thuẫn giữa hai anh chị đã trầm trọng, kéo dài và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Quan hệ về con chung: Chị G1, anh C1 có 01 con chung là Đinh Quỳnh C2, sinh ngày 28/6/2016. Hiện con chung đang do chị G1 nuôi dưỡng ở ngoài Hải Phòng. Trường hợp anh chị ly hôn thì quan điểm địa phương xác định do con chung còn nhỏ, điều kiện nuôi con của chị G1 tốt hơn anh C1, anh C1 hiện đang nợ rất nhiều và phải trốn nợ. Để đảm bảo điều kiện tốt nhất cho con chung, đề nghị Tòa án giao cháu Đinh Quỳnh C2 cho chị Ngô Thị G1 trực tiếp nuôi dưỡng.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện VKSND thị xã Kinh Môn phát biểu ý kiến, xác định Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không chấp hành.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân gia đình. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị G1. Xử cho chị Ngô Thị G1 ly hôn anh Đinh Văn C1; quan hệ về con chung: Giao cho chị Ngô Thị G1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con Đinh Quỳnh C2, sinh ngày 28/6/2016; về án phí: Chị Ngô Thị G1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ tranh chấp: Chị Ngô Thị G1 khởi kiện tranh chấp về ly hôn, đây là tranh chấp quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn - anh Đinh Văn C1 có Hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Khu dân cư Mỹ Động, phường HT2, thị xã Kinh Môn nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng: Do anh Đinh Văn C1 vắng mặt nên Tòa án đã tiến hành tống đạt trực tiếp Thông báo về việc thụ lý vụ án và Giấy triệu tập cho người thân thích cùng nơi cư trú với anh C1 là bà Vũ Thị Lý (mẹ đẻ anh C1), theo quy định tại khoản 5 Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự; quá trình giải quyết vụ án, do không thể cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp văn bản tố tụng và giấy triệu tập của Tòa án cho bị đơn hoặc người thân thích, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn, Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự. Như vậy, việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án hợp lệ theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về sự vắng mặt của đương sự: Chị Ngô Thị G1 vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Đinh Văn C1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự HĐXX xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện:

- Quan hệ về hôn nhân: Chị Ngô Thị G1 kết hôn với anh Đinh Văn C1 vào ngày 09 tháng 11 năm 2015 trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã HT2 - nay là phường HT2, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống tại gia đình anh C1 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C1 mải chơi dẫn đến nợ tiền dân xã hội nên thường xuyên phải đi trốn nợ. Do mâu thuẫn căng thẳng nên chị G1 đã về gia đình bố mẹ đẻ tại thôn HN1, xã AH1, huyện AD1, thành phố Hải Phòng sống ly thân với anh C1 từ đầu năm 2020 đến nay. Chị G1, anh C1 đã không còn quan tâm, liên lạc gì với nhau.

Từ những căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân giữa chị G1, anh C1 đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị G1 được ly hôn anh C1.

- Quan hệ về con chung: Chị Ngô Thị G1 và anh Đinh Văn C1 có 01 con là Đinh Quỳnh C2, sinh ngày 26/8/2016. Hiện con đang do chị G1 trực tiếp nuôi dưỡng. Nay ly hôn chị G1 có nguyện vọng được nuôi dưỡng con và tự nguyện không yêu cầu anh C1 phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Xét điều kiện nuôi con của các bên đương sự thì thấy: Chị Ngô Thị G1 hiện đang làm công nhân tại Công ty Toyota Goseil, địa chỉ: Khu công nghiệp Nomura - Quán Toan, Hải Phòng có thu nhập ổn định, bình quân hàng tháng khoảng 12.000.000đ (mười hai triệu đồng); còn anh Đinh Văn C1 hiện đang trốn nợ, vắng mặt tại địa phương; quan điểm của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và trẻ em - UBND phường HT2 đề nghị Tòa án giao con Đinh Quỳnh C2, sinh ngày 26/8/2016 cho chị G1 tiếp tục nuôi dưỡng.

Từ những căn cứ, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy điều kiện nuôi con của chị Ngô Thị G1 tốt hơn anh Đinh Văn C1. Để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con, HĐXX sẽ giao cho Ngô Thị G1 được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ngô Thị G1 về việc không yêu cầu anh Đinh Văn C1 phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

- Quan hệ về tài sản chung: Chị Ngô Thị G1 không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[3]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị G1. Xử cho chị Ngô Thị G1 ly hôn anh Đinh Văn C1.

2. Quan hệ về con chung: Giao cho chị Ngô Thị G1 trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con Đinh Quỳnh C2, sinh ngày 26/8/2016 đến khi con đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ngô Thị G1 về việc không yêu cầu anh Đinh Văn C1 phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Anh Đinh Văn C1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Ngô Thị G1 phải chịu 300.000đ án phí sơ thẩm ly hôn nhưng được đối trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị G1 đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Kinh Môn theo biên lai số AA/2018/0005774 ngày 05/4/2021. Chị Ngô Thị G1 đã thực hiện xong nghĩa vụ về án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn (vắng mặt) có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 35/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về