Bản án về tranh chấp ly hôn số 32/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 32/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 763/2021/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Mộng L, sinh năm 1990 (Xin vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp L, xã Lộc G, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Bị đơn: Anh Lê Tấn P, sinh năm 1983 (Vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp L, xã Lộc G, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 01 tháng 12 năm 2021 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Mộng L trình bày: Chị và anh Lê Tấn P chung sống với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc G, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Sau đó, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. Anh P ăn chơi, nợ nần, không lo cho cuộc sống của vợ con. Chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh P vẫn không thay đổi tính tình. Anh chị đã ly thân nhau từ tháng 10 năm 2020 cho đến nay. Nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên chị xin ly hôn với anh Lê Tấn P.

Về con chung: Quá trình chung sống, anh chị có một con chung Lê Huỳnh Phi Y, sinh ngày 01/3/2009. Con hiện đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị xin được quyền nuôi con, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, chị Huỳnh Thị Mộng L có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng anh Lê Tấn P vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Huỳnh Thị Mộng L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Lê Tấn P, anh P hiện thường trú tại ấp L, xã Lộc G, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (được Công an xã Lộc G xác nhận) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Mộng L xin vắng mặt; bị đơn anh Lê Tấn P đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Mộng L và anh Lê Tấn P chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc G nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Thấy rằng, trong quá trình chung sống, chị L cho rằng do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống; anh P ăn chơi, nợ nần, không lo cho cuộc sống của vợ con. Anh chị không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Mâu thuẫn giữa anh chị cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Đối với anh Lê Tấn P, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của chị L nhưng anh P không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của chị L. Tại phiên tòa, anh P vẫn vắng mặt, chứng tỏ không có thiện chí để hàn gắn trong khi vợ chồng mâu thuẫn từ tháng 6 năm 2020 cho đến nay. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung vợ chồng của anh chị không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của chị L đối với anh P là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Chị L trình bày chị và anh P chung sống có con chung tên Lê Huỳnh Phi Y, sinh ngày 01/3/2009. Con hiện đang sống với chị L. Khi ly hôn, chị L yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Đối với anh P, dù đã được thông báo về yêu cầu của chị L đối với con chung nhưng anh không đến Tòa án, cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án.

Xét thấy, từ khi chị L và anh P xa nhau đến nay, chị L là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của con chung. Bên cạnh đó, cháu Phi Y là con gái, cần có sự chăm sóc, gần gũi của người mẹ hơn. Ngoài ra, cháu trên 07 tuổi, có nguyện vọng sống chung với mẹ. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần tiếp tục giao con chung cho chị L nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị L không yêu cầu anh P cấp dưỡng đối với con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung: Chị Huỳnh Thị Mộng L trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh Lê Tấn P không có văn bản phản hồi ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét [6]. Về nợ chung: Chị Huỳnh Thị Mộng L trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh Lê Tấn P không có văn bản phản hồi ý kiến về nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Chị Huỳnh Thị Mộng L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, 273, 483, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Mộng L đối với anh Lê Tấn P về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Mộng L được ly hôn với anh Lê Tấn P.

- Về con chung: Chị Huỳnh Thị Mộng L được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Lê Huỳnh Phi Y, sinh ngày 01/3/2009. Anh Lê Tấn P không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị Huỳnh Thị Mộng L không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết

2. Về án phí: Chị Huỳnh Thị Mộng L phải chịu 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng chẳn) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, sung ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0009160 ngày 01/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 32/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:số 32/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về