Bản án về tranh chấp ly hôn số 30/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 30/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 600/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2021 về “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2022/QĐ-HPT ngày 22 tháng 03 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà LÊ PHƯƠNG L, sinh năm: 1994.

Hộ khẩu thường trú: 61/604 khu phố V, phường V1, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở hiện nay: 160/9 đường H, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

Bị đơn: Ông TRẦN QUỐC H, sinh năm 1989.

Hộ khẩu thường trú: 22/9A3 đường N, phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

Chỗ ở hiện nay: 180/17/11 đường B, phường B1, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 16/6/2021, các lần làm việc và tại phiên Tòa, nguyên đơn bà Lê Phương L trình bày:

Bà Lê Phương L và ông Trần Quốc H sau một thời gian tìm hiểu thì tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau vào năm 2013 nhưng đến năm 2015 mới đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 108, quyển số I do Ủy ban nhân dân phường B, thành phố V cấp ngày 18/5/2015.

Sau khi cưới, bà L và ông H chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân theo bà L là do ông H có sử dụng chất gây nghiện là ma túy đá nên không làm chủ được bản thân, vô cớ kiếm chuyện để xung đột, cãi vã với bà. Ngoài ra chẳng những không phụ giúp hỗ trợ bà làm ăn, còn gây sự, cản trở công việc của bà. Vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn nên năm 2017 bà L đưa con về tỉnh Kiên Giang sống và làm ăn. Thời gian này, vợ chồng có liên lạc, nói chuyện với nhau nhưng chưa hàn gắn tình cảm. Cuối năm 2019, bà L đưa con quay lại thành phố V sống, ông H biết nên tìm gặp bà L để hàn gắn tình cảm. Nhận thấy ông H vẫn chưa thay đổi, không tu chí làm ăn nên bà L không đồng ý. Nay tại tòa, bà L xác định bản thân bà không còn tình cảm, hoàn toàn không còn quan tâm đến ông H, mâu thuẫn đã trầm trọng nên không thể hàn gắn. Vì vậy, bà L yêu cầu ly hôn với ông H.

Về con chung: Quá trình chung sống có 01 (một) con chung là Trần Lê Gia T, sinh ngày 09/10/2015. Từ khi vợ chồng ly thân đến nay, bà L là người trực tiếp và tự lực hoàn toàn trong việc chăm sóc con. Nay dựa trên nguyện vọng của cháu T và khả năng của mình, bà L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu T, không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà L xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự đối với bị đơn là ông Trần Quốc H để ông H thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Nhưng ông H không đến Tòa án làm việc, vắng mặt theo các giấy triệu tập của Tòa án mà không có lý do chính đáng, ông H cũng không thể hiện ý kiến và yêu cầu gì gửi đến Tòa án.

Biên bản xác minh ngày 29/12/2021 tại Tổ S, khu phố B, phường B1, thành phố V xác định: Ông Trần Quốc H và gia đình thuê nhà và sinh sống tại nhà số 180/17/11 đường B, phường B1, thành phố V khoảng 01 (một) năm nay. Bà L không sống chung cùng ông H tại đây nên tổ dân phố không biết về mâu thuẫn của vợ chồng ông H, bà L.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định pháp luật. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa xác định:

- Về hôn nhân: Bà L yêu cầu ly hôn với ông H. Xét hôn nhân bà L, ông H qua trình bày của bà L và kết quả xác minh thể hiện, mẫu thuẫn của vợ chồng là có thật, tồn tại thời gian dài và theo chiều hướng ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt. Nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên cho bà L được ly hôn ông H.

- Về con chung: Có 01 (một) con chung là Trần Lê Gia T, sinh ngày 09/10/2015. Từ khi vợ chồng ly thân đến nay, bà L là người trực tiếp chăm sóc con, kết quả cháu T phát triển ổn định mọi mặt. Nay bà L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu T. Xét yêu cầu của bà L là có căn cứ pháp luật để xem xét vì bà L có đủ điều kiện nuôi con, phù hợp với nguyện vọng của con chung. Nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà L về việc bà L là người trực tiếp nuôi con chung. Bà L không yêu cầu giải quyết việc cấp dưỡng nên không đề nghị gì thêm.

+ Về nợ chung và tài sản chung: Bà L không yêu cầu giải quyết nên không đề nghị giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền thụ lý:

Bà Lê Phương L và ông Trần Quốc H chung sống có đăng ký kết hôn. Bà L có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông H. Ông H có nơi cư trú tại thành phố V. Vì vậy xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình về “Tranh chấp ly hôn”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố V theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng:

Tòa án đã thực hiện tống đạt các văn bản, thủ tục tố tụng để ông H tham gia tố tụng, ông H nhận các văn bản của Tòa án nhưng vắng mặt toàn bộ quá trình tố tụng. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Lê Phương L và ông Trần Quốc H chung sống có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 108, quyển số I do Ủy ban nhân dân phường B, thành phố V cấp ngày 18/5/2015, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện nên xác định là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, theo bà L trình bày: Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân theo bà L là do ông H sử dụng chất gây nghiện là ma túy đá nên ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát hành vi. Từ đó ông H thường kiếm cớ để gây sự, chửi bới bà, làm ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ vợ chồng, đến việc buôn bán, mưu sinh của bà L. Mặc dù bà L và gia đình đã khuyên nhủ, động viên nhưng ông H không thay đổi. Vì vậy, vợ chồng ly thân đã lâu, không còn quan tâm, yêu thương chia sẻ với nhau.

Từ yêu cầu, trình bày của bà L, theo quy định của pháp luật, Tòa án đã triệu tập ông H tham gia tố tụng để nghe ý kiến quan điểm, yêu cầu của ông H nhưng ông H vắng mặt không có lý do.

Ngoài ra, để có căn cứ xem xét yêu cầu của bà L, Tòa án thu thập chứng cứ, kết quả xác minh cho thấy, ông H và bà L không còn sống chung, mâu thuẫn của ông bà là có thật và theo chiều hướng trầm trọng. Tại Tòa, mặc dù được Tòa án động viên, hòa giải nhưng bà L cương quyết ly hôn do xác định không còn tình cảm với ông H, không thể duy trì cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Bên cạnh đó, việc ông H không có mặt ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào để có thể tranh thủ sự hòa giải của Tòa án cũng thể hiện rõ ông không có thiện chí, khát khao hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Căn cứ Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau…”. Đối chiếu quy định trên thì thấy tình trạng hôn nhân của ông H, bà L không thỏa mãn được mục đích, ý nghĩa cốt yếu để duy trì đời sống hôn nhân. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà L là có căn cứ nên chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Bà Lê Phương L và ông Trần Quốc H có 01 (một) con chung là Trần Lê Gia T, sinh ngày 09/10/2015. Bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Nhằm đảm bảo sự ổn định trong tâm lý và phát triển của cháu T, đồng thời xét thấy bà L có đủ các điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng con, nên quyết định giao cháu Trần Lê Gia T cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Bà L không yêu cầu giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà L phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 227, 147, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các điều 19, 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 1 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 hướng dẫn mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Phương L.

1. Về hôn nhân: Bà Lê Phương L ly hôn với ông Trần Quốc H.

2. Về con chung: Là Trần Lê Gia T, sinh ngày 09/10/2015. Giao Trần Lê Gia T cho bà Lê Phương L trực tiếp nuôi dưỡng. Bà L không yêu cầu giải quyết nên không xem xét về cấp dưỡng nuôi con.

Quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi con, người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thực hiện theo Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình.

Trên cơ sở lợi ích của con, trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Bà Lê Phương L phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0001108 ngày 23/6/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố V. Như vậy, bà L đã thi hành xong án phí.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm; bị đơn vắng mặt thì thời hạn kháng cáo nêu trên được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

444
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 30/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:30/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về