Bản án về tranh chấp ly hôn số 2793/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 2793/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:

840/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4297/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 4845/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị T Sinh năm: 1984.

Đa chỉ: xã A, huyện B, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt theo đơn xin vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân H Sinh năm: 1982.

Đa chỉ: đường X, phường Y, thành phố Z, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn xin ly hôn ngày 28/3/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Lê Thị T trình bày:

Bà T và ông H chung sống với nhau từ năm 2007 và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 06/2017, Quyển số 01/F4 do Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28/6/2017. Việc chung sống với nhau là hoàn toàn tự nguyện.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc nhưng những năm trở lại đây phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng bắt đầu không còn có tiếng nói chung dẫn tới bất hòa, không còn hạnh phúc mặc dù đã nhiều lần hàn gắn. Ông bà đã ly thân với nhau từ nhiều năm nay. Nay bà T xác định không còn tình cảm với ông H, mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục duy trì cuộc sống vợ chồng nên yêu cầu được ly hôn với ông H.

Về con chung: Bà T và ông H có 01 con chung tên Nguyễn Khánh N, sinh ngày 17/5/2007. Bà T đồng ý giao con chung Nguyễn Khánh N cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng và bà T đồng ý cấp dưỡng cho con số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng/tháng. Theo yêu cầu của Tòa án, bà T phải đưa con Nguyễn Khánh N đến Tòa để xem xét nguyện vọng của con muốn sống chung với ai. Tuy nhiên, hiện nay con chung đang sống chung với ông H, ông H không hợp tác nên không đồng ý đưa con chung đến Tòa để ghi ý kiến, trình bày nguyện vọng. Do đó, bà T đề nghị Tòa án sớm đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Xuân H vắng mặt trong quá trình tiến hành tố tụng nên Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức không thể thu thập được lời trình bày của ông H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng. Các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Bà Lê Thị T yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Xuân H nên căn cứ quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thì quan hệ tranh chấp trong vụ án được xác định là “Tranh chấp ly hôn”. Ông H cư trú tại thành phố Thủ Đức nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng triệu tập bị đơn ông H tham gia phiên tòa vào ngày 15/7/2022 và ngày 25/7/2022 nhưng ông H vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông H.

Xét đơn xin vắng mặt tại phiên tòa của bà T là tự nguyện, đúng theo quy định của pháp luật nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà T.

[3] Về yêu cầu của đương sự:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định bà T và ông H tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 06/2017, Quyển số 01/F4 do Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28/6/2017. Việc chung sống với nhau là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông H là hôn nhân hợp pháp.

[3.2] Căn cứ lời trình bày của bà T trong quá trình giải quyết vụ án thì giữa bà và ông H thường xuyên xảy ra bất đồng mà không thể nào hàn gắn được đến mức cả hai phải chọn giải pháp ly thân. Ông bà đã ly thân với nhau từ nhiều năm nay nên tình cảm vợ chồng không còn. Nay bà T yêu cầu được ly hôn với ông H.

[3.3] Trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, ông H mặc dù đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này cho thấy ông H đã không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân giữa ông và bà T. Do đó, có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông H là trầm trọng, tình cảm yêu thương vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy, yêu cầu của bà T xin ly hôn với ông H là có cơ sở, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3.4] Về con chung: Bà T và ông H có 01 con chung tên Nguyễn Khánh N, sinh ngày 17/5/2007. Bà T đồng ý giao con cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng và bà T đồng ý cấp dưỡng cho con số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng/tháng. Xét thấy yêu cầu của bà T về việc giao con chung cho ông H nuôi dưỡng đồng thời bà T còn tự nguyện cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định của pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi để giữ cho cuộc sống của con chung được ổn định vì hiện nay con chung Nguyễn Khánh N đang sống chung với ông H. Do đó, mặc dù không thu thập được ý kiến, nguyện vọng của con chung mong muốn sống với cha hay mẹ nhưng Hội đồng xét xử xét thấy có đầy đủ cơ sở để chấp nhận giao con chung cho ông H tiếp tục nuôi dưỡng. Bà T cấp dưỡng cho con số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng/tháng, thực hiện vào ngày 15 hàng tháng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

[3.5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Bà T là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ông H không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khon 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Luật Thi hành án dân sự;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Lê Thị T:

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Xuân H.

1.2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Khánh N, sinh ngày 17/5/2007 cho ông Nguyễn Xuân H tiếp tục nuôi dưỡng. Bà T cấp dưỡng nuôi con số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng/tháng, thực hiện vào ngày 15 hàng tháng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, giao nhận tiền tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày ông Nguyễn Xuân H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Lê Thị T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định trên thì hàng tháng ông H còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự. Mức lãi suất được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Các bên thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

2. Về án phí:

Án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, bà Lê Thị T phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu số AA/2021/0026607 ngày 01/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức. Ngoài ra, do phải cấp dưỡng nuôi con nên bà T phải nộp thêm số tiền án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng. Ông H không phải chịu án phí.

3. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 ngày, kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 2793/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:2793/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về