TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 269/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 08 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 188/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2021/QĐXX- ST ngày 22 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Huỳnh Thị Th, địa chỉ: thôn T, xã C, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; có mặt
- Bị đơn: ông Lê H, địa chỉ: thôn P, xã T1, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 12 tháng 10 năm 2021 và tại phiên Toà hôm nay nguyên đơn bà Huỳnh Thị Th trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Th và ông Lê H tự nguyện chung sống như vợ chồng từ năm 2009 tại thôn T, xã C, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam nhưng không có đăng ký kết hôn. Đến năm 2019 giữa ông bà xảy ra nhiều mâu thuẫn do ông H ghen tuông vô cớ, xúc phạm bà. Bản thân ông H có quan hệ ngoại tình, bỏ đi chung sống với người khác nên ông bà sống ly thân, bỏ mặc không quan tâm chăm sóc nhau. Nay bà Th yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H để bà được tự do định đoạt cuộc sống riêng của mình.
Về con chung: vợ chồng có 02 cháu Lê Thị Huỳnh H (sinh ngày 16/02/2010) và Lê Hoàng V(sinh ngày 13/10/2014). Nay ly hôn bà Th có nguyện vọng được nuôi các cháu H và V cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Tại hồ sơ vụ án bị đơn ông Lê H trình bày: Ông và bà Huỳnh Thị Th chung sống không có đăng ký kết hôn từ năm 2009, được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do ông nghi ngờ bà Th có quan hệ ngoại tình. Bà Th thiếu tôn trọng gia đình chồng và chồng nên ông bức xúc bỏ nhà đi từ năm 2019. Nay bà Th yêu cầu ly hôn thì ông đồng ý ly hôn đồng thời yêu cầu Tòa xét xử vụ án vắng mặt ông.
Về con chung ông thống nhất với lời khai và nguyện vọng của bà Th là giao 02 cháu Lê Thị Huỳnh H (sinh ngày 16/02/2010) và Lê Hoàng V(sinh ngày 13/10/2014) cho bà Th nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, Ông không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng tự giải quyết, không yêu cầu Tòa can thiệp.
Tại hồ sơ vụ án, các cháu Lê Thị Huỳnh H và Lê Hoàng Vcó nguyện vọng được sống với mẹ là bà Huỳnh Thị Th khi vợ chồng ly hôn.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ phát biểu quan điểm:
Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định pháp luật. Đối với nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình.
Về nội dung vụ án: xét thấy bà Th và ông H chung sống như vợ chồng từ năm 2009 nhưng đến nay vẫn không đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân gia đình 2014 nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Th và ông H. Về con chung đề nghị cho đến giao cháu Lê Thị Huỳnh H (sinh ngày 16/02/2010) và Lê Hoàng V(sinh ngày 13/10/2014) cho bà Th trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục khi cháu đủ 18 tuổi. Bà Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề cập. Về tài sản chung và nợ chung bà Th và ông H không yêu cầu Tòa can thiệp nên đề nghị không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu hiện có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bà Huỳnh Thị Th khởi kiện ly hôn đối với ông Lê H có hộ khẩu thường trú tại thôn Phú Bình, xã Đại Thắng, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam. Đây là vụ án tranh chấp “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ việc nộp văn bản trình bày ý kiến, yêu cầu của mình về các vấn đề liên quan trong vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định tại Điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét quan hệ hôn nhân giữa bà Huỳnh Thị Th và ông Lê H thì thấy ông bà đã xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và nhưng đến nay không đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nay bà Th khởi kiện xin ly hôn, Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Th và ông H theo Điều 53 Luật Hôn nhân gia đình 2014 là phù hợp.
[2.2] Về quan hệ con chung: Xét thỏa thuận giữa bà Th bà ông H về việc giao cháu Lê Thị Huỳnh H (sinh ngày 16/02/2010) và Lê Hoàng V(sinh ngày 13/10/2014) cho bà Th trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục khi cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với thực tế và không trái pháp luật, phù hợp với các nguyện vọng của các con chung nên công nhận.
Tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bà Th không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án bà Th và ông H khai không có yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung nên không đề cập.
[2.4] Về án phí: Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bà Th phải chịu án phí kiện xin ly hôn 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 147, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự Áp dụng các Điều 9, 14, 15, 53, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Tuyên xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Huỳnh Thị Th và ông Lê H.
- Về con chung: Giao cho bà Huỳnh Thị Th là người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục các cháu Lê Thị Huỳnh H (sinh ngày 16/02/2010) và Lê Hoàng V(sinh ngày 13/10/2014) cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.
Bà Huỳnh Thị Th không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Lê H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai có quyền cản trở.
Khi có lý do chính đáng các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Ông H và bà Th thống nhất tự giải quyết, không yêu cầu Tòa can thiệp.
- Về án phí: Án phí kiện xin ly hôn số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng y) bà Huỳnh Thị Th phải chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng y) bà Th đã nộp theo biên lai thu số 0003517 ngày 12/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Đ.
- Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Đối với bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm.
Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
(Đã giải thích luật thi hành án dân sự).
Bản án về tranh chấp ly hôn số 269/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 269/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đại Lộc - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về