TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 265/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 22 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 69/2022/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2022 về việc: “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 455/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 589/2022/QĐST- HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Hà Thị H, sinh năm 1984 – Có mặt Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc H1, sinh năm 1987 – Vắng mặt Địa chỉ: Z đường Nguyễn Bình, Ấp 1, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bà Hà Thị H là nguyên đơn trình bày:
Bà Hà Thị H và ông Nguyễn Quốc H1 sống chung với nhau từ năm 2016. Hai bên có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 61/2016 do Ủy ban nhân dân phường Long Bình, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/7/2016.
Thời gian đầu vợ chồng ông bà chung sống cũng hạnh P. Nhưng kể từ năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, ông H1 không quan tâm đến vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Bà H và ông H1 đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng vẫn không có kết quả. Nay, bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà H ly hôn ông H1 để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Bà H và ông H1 có 02 con chung là trẻ Nguyễn Hà Thiên P, sinh ngày 29/12/2020 (Nam) và Nguyễn Hà Thảo N, sinh ngày 29/12/2020 (Nữ).
Hiện nay cả hai con đang do bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà H yêu cầu được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con.
Về việc cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng. Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung: Bà H xác định không có.
Tại bản tự khai ngày 04/4/2022, ông Nguyễn Quốc H1 là bị đơn trình bày ý kiến:
Ông H1 xác nhận những lời trình bày của bà H về tình trạng pháp lý đối với quan hệ hôn nhân, về con chung, tài sản chung, nợ chung giữa ông H1 và bà H là hoàn toàn đúng sự thật.
Về mâu thuẫn vợ chồng ; Ông H1 cho rằng : Mâu thuẫn phát sinh từ tháng 7/2021, nguyên nhân là do dịch Covid-19 nên kinh tế gia đình khó khăn, ông H1 đi làm phải ở lại nhà nghỉ, không về nhà vì sợ lây bệnh cho vợ, con. Tại thời điểm đó bà H cùng 02 con sang nhà em gái của bà H bên Quận 7 ở để tránh dịch nhưng cũng từ đó đến nay bà H ở bên Quận 7 luôn, không về nhà, chỉ cuối tuần mới đưa con về chơi rồi lại qua bên nhà em gái. Ông H1 cho rằng việc bà H yêu cầu ly hôn là do em gái của bà H tác động vì ông H1 không có lỗi gì và ông cũng không phải là người chồng, người cha thiếu trách nhiệm. Do vậy, ông H1 không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn thì ông H1 yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Nguyễn Hà Thiên P và đồng ý giao trẻ Nguyễn Hà Thảo N cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Hai bên tự thỏa thuận.
Về tài sản chung: Ông H1 xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Ông H1 xác định không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 61/2016 do Ủy ban nhân dân phường Long Bình, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/7/2016 thì bà Hà Thị H và ông Nguyễn Quốc H1 có quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà H xin ly hôn ông Nguyễn Quốc H1. Ông H1 có nơi cư trú tại huyện Nhà Bè, do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong vụ án này, ông Nguyễn Quốc H1 là bị đơn mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập tham gia phiên tòa để ông Nguyễn Quốc H1 đến tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm nhưng ông H1 vẫn không có mặt mà không có lý do chính đáng nên Hội đ ồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông H1 theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về các yêu cầu của đương sự:
[2.1] Theo lời trình bày của nguyên đơn thì kể từ năm 2017 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do ông H1 thiếu trách nhiệm với vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không phụ bà H chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.
Tại Bản tự khai của mình, bị đơn ông Nguyễn Quốc H1 cũng xác nhận vợ chồng ông mâu thuẫn từ từ tháng 7/2021 và sống ly thân từ tháng 7/2021 đến nay. Ông H1 không đồng ý ly hôn, muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng không đến Tòa án tham gia phiên tòa cũng như không đưa ra được phương án nào để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng.
Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.
Hội đồng xét xử xét:
Mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Hà Thị H và ông Nguyễn Quốc H1 là có thật, đã trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu có duy trì cuộc hôn nhân này thì cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên. Hơn nữa, ông H1 mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa làm việc chứng tỏ ông H1 cũng không còn thiết tha gì đến cuộc hôn nhân này nữa. Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Hà Thị H ly hôn ông Nguyễn Quốc H1 là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về con chung: Bà H yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con.
Hội đồng xét xử xét:
Bà Hà Thị H và ông Nguyễn Quốc H1 có 02 con chung ( Sinh đôi) là trẻ Nguyễn Hà Thiên P, sinh ngày 29/12/2020 (Nam) và trẻ Nguyễn Hà Thảo N, sinh ngày 29/12/2020 (Nữ). Hiện nay cả hai trẻ đều còn nhỏ chưa đủ 03 tuổi, thực tế lại đang do bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp và sự phát triển bình thường cũng như tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em, Hội đồng xét xử giao cả hai con chung cho bà H tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
[2.3] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận việc bà H không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng.
[2.4] Về tài sản chung: Bà H và ông H1 không yêu cầu giải quyết. [2.5] Về nợ chung: Bà H xác định không có.
[3] Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng do bà H phải nộp, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà H đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0037476 ngày 16 tháng 02 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 227; Điều 228; Điều 266; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117, 118 và Điều 119 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- Căn cứ vào Luật trẻ em;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016;
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Hà Thị H được ly hôn ông Nguyễn Quốc H1.
- Về con chung: Giao trẻ Nguyễn Hà Thiên P, sinh ngày 29/12/2020 (Nam) và trẻ Nguyễn Hà Thảo N, sinh ngày 29/12/2020 (Nữ) cho bà Hà Thị H tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
- Về việc cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận việc bà H không yêu cầu cấp dưỡng.
Bà Hà Thị H có trách Hệm tạo điều kiện thuận lợi khi ông Nguyễn Quốc H1 đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì quyền lợi của con khi cần thiết, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Bà H và ông H1 không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.
2/ Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) do bà H phải nộp, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà H đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0037476 ngày 16 tháng 02 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/ Về quyền kháng cáo: Bà Hà Thị H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Quốc H1 được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. /
Bản án về tranh chấp ly hôn số 265/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 265/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về