Bản án về tranh chấp ly hôn số 26/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 65/2022/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 313/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2022/QĐST-DS ngày 13 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Mỹ L, sinh năm 1982 (Có yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Địa chỉ: khu vực A, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ.

2. Bị đơn: Ông Lương Tấn B, sinh năm 1978 (Vắng mặt). Địa chỉ: khu vực A, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 28/02/2022 và quá trình giải quyết , nguyên đơn bà Nguyễn Mỹ L trình bày:

Qua tìm hiểu chúng tôi tự nguyện đi đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Thường Thạnh, quận C, thành phố Cần Thơ vào ngày 10/11/2005.

Chúng tôi sống hạnh phúc được 14 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, chồng tôi có người khác bên ngoài, chúng tôi thường xuyên cự cải, cả hai đã cố hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Chúng tôi đã ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Vì vậy, tôi làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ giải quyết cho tôi vấn đề sau:

+ Về quan hệ hôn nhân: Cho tôi được ly hôn với ông Lương Tấn B.

+ Về con chung: Chúng tôi có 02 con chung tên Lương Tấn T (nam); sinh ngày 21/6/2002. Đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Và cháu Lương Tấn T (nam); sinh ngày 24/02/2006. Hiện tại cháu T đang sống với tôi. Tôi yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu T đến khi trưởng thành. Không yêu cầu ông B cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

Bị đ ơn ôn g Lương Tấ n B: Được Tòa án triệu hợp lệ 02 lần nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt và vẫn giữ yêu cầu khởi kiện. Bị đơn tiếp tục vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Người tham gia tố tụng đối với nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn vắng mặt các lần hòa giải và xét xử, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nhận thấy mâu thuẫn giữa bà L và ông B đã thật sự nghiêm T, đời sống hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Nguyễn Mỹ L và ông Lương Tấn B tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Thường Thạnh, quận C, thành phố Cần Thơ vào ngày 10/11/2005 nên xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống, bà L và ông B phát sinh mâu thuẫn, bà L có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn”. Bị đơn có địa chỉ tại quận C cho nên tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận C theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Mỹ L có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn – ông Lương Tấn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt cho nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án (vắng mặt nguyên đơn và bị đơn) theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét quan hệ hôn nhân: Bà L và ông B chung sống năm 2005 và có đăng ký kết hôn năm 2005 tại ủy ban nhân dân phường Thường Thạnh, quận C, thành phố Cần Thơ, sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Tại phiên tòa hôm nay ông B đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vẫn vắng mặt nên được xem là từ bỏ quyền tranh tụng của mình. Hội đồng xét xử sẽ giải quyết vụ án dựa trên trình bày của bà L và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo bà L, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cự cải, ông B có người khác bên ngoài cho nên bà nộp đơn xin ly hôn.

Xét trong quá trình giải quyết vụ án, bà L xác nhận bà và ông B chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm T mặc dù vợ chồng có cố gắn hàn gắn tình cảm nhưng không cải thiện. Do đó, bà và ông B đã ly thân với nhau từ năm 2019 cho đến nay.

Mặt khác, ông B đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vẫn không đến Toà án tham gia tố tụng để Toà án hoà giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ giữa ông B và bà L đã không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được thì cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L theo quy định tại khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Bà L khai có tên Lương Tấn T (nam); sinh ngày 21/6/2002. Đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Và cháu Lương Tấn T (nam); sinh ngày 24/02/2006. Hiện tại cháu T đang sống với bà L. Sau khi ly hôn bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu T đến khi trưởng thành. Không yêu cầu ông B cấp dưỡng.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa T về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa T được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Tại bản tự khai ngày 24/5/2022 thì cháu T có nguyện vọng sống với mẹ (bút lục 34). Ngoài ra, hiện tại cháu T đang sống chung với bà L. Bà L cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu T đến khi trưởng thành. Nhằm tạo điều kiện về mặt vật chất và tinh thần cho cháu T tránh làm xáo trộn cuộc sống của cháu. Vì vậy, việc giao cháu T cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn là phù hợp quy định pháp luật và cũng đảm bảo cuộc sống cho cháu T. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà L không yêu cầu ông B cấp dưỡng cho nên không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông B theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn khai là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Đố i với ý kiến củ a đ ại diện Viện kiể m sát:

+ Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Về nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung này là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 81, khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2017/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tu yên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Mỹ L về việc ly hôn với ông Lương Tấn B.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Mỹ L được ly hôn với ông Lương Tấn B.

2. Về con chung: Nguyên đơn khai có 02 con chung Lương Tấn T (nam); sinh ngày 21/6/2002. Đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Và Lương Tấn T (nam); sinh ngày 24/02/2006. Giao cháu T cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Ghi nhận bà L không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông B theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Mỹ L phải chịu 300.000 đồng. Chuyển tiền tạm ứng án phí bà L đã nộp theo biên lai thu số 0008335 ngày 07/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự, quận C thành án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm phải chịu. Bà L đã nộp xong án phí.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 26/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về