TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 06 tháng 5 năm 2022 tại phòng xử án Toà án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 525/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2021về việc "ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2022/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 03 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2022; thông báo mở lại phiên tòa số 32/TB-TA ngày 12 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: bà Đoàn Thị Minh H, sinh năm 1964; địa chỉ: tổ 2, khu Trới 4, phường H1, thành phố H2, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.
2. Bị đơn: ông Ngô Bá T, sinh năm 1960; địa chỉ: tổ 2, khu Trới 4, phường H1, thành phố H2, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 27/7/2021, bản tự khai ngày 08/11/2021, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Đoàn Thị Minh H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: bà và ông Ngô Bá T tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau vào năm 1987 tại UBND thị trấn Trới, huyện H3 (nay là phường H1, thành phố H2), tỉnh Quảng Ninh. Trước khi kết hôn chưa ai có vợ, có chồng, có thời gian tìm hiểu nhau 01 năm. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là bất đồng về kinh tế dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã và đôi khi xảy ra xô xát dẫn đến cuộc sống căng thẳng, ảnh hưởng đến con cái, tình cảm vợ chồng dần phai nhạt. Từ tháng 4/2014, bà và ông T tuy ở cùng nhà nhưng sống ly thân, không ai còn quan tâm đến ai. Từ tháng 5/2021 đến nay bà đã lên Hà Nội sống với con gái thỉnh thoảng mới về thăm nhà. Khi mâu thuẫn xảy ra, bà và ông T cũng như các con đã nhiều lần tìm cách hòa giải mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Nay bà xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, không còn khả năng đoàn tụ được nữa nên yêu cầu tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Ngô Bá T.
Về con chung: bà và ông Ngô Bá T có 02 con chung là Ngô Bá Tùng L, sinh ngày 22/9/1987 và Ngô Thị Cẩm H4, sinh ngày 14/8/1994. Các con chung đã trưởng thành, phát triển bình thường và có gia đình nên bà không yêu cầu tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: bà không đề nghị tòa án giải quyết về tài sản chung vợ chồng, bà và ông T không có nợ chung.
Đối với bị đơn - ông Ngô Bá T: trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập; thông báo mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật cho ông Ngô Bá T nhưng ông T không lên tòa để giải quyết vụ án.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 23/12/2021, tiến hành lấy lời khai của ông Ngô Bá T (có sự chứng kiến của ông Bùi Quốc C là tổ trưởng tổ 2, khu Trới 4, phường H1, thành phố H2) thể hiện: ông và bà Đoàn Thị Minh H tự nguyện đăng ký kết hôn vào tháng 02/1987 tại UBND thị trấn Trới, huyện H3, tỉnh Quảng Ninh. Việc bà H nộp đơn khởi kiện ly hôn ông được biết, các giấy tờ, giấy báo của tòa án nhân dân thành phố Hạ Long gửi về nhưng ông không đồng ý với việc ly hôn nên ông không đọc và cũng từ chối nhận các giấy tờ của tòa án. Ông xác định trong cuộc sống gia đình không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ xuất phát từ kinh tế gia đình. Ông không đồng ý ly hôn với bà H, mong muốn hai vợ chồng cùng ngồi bàn bạc, hàn gắn với nhau và mong muốn giải quyết nội bộ gia đình.
Về con chung: ông và bà H có 02 con chung là Ngô Bá Tùng L, sinh ngày 22/9/1987 và Ngô Thị Cẩm H4, sinh ngày 14/8/1994. Các con chung đã trưởng thành và có gia đình riêng.
Về tài sản chung: ông không đồng ý ly hôn nên không đề nghị tòa án giải quyết.
Xác nhận của chính quyền địa phương (tại Biên bản xác minh với ông Bùi Văn C là tổ trưởng tổ 2, khu Trới 4, phường H1, thành phố H) thể hiện: bà Đoàn Thị Minh H và ông Ngô Bá T là công dân tại tổ 2, khu Trới 4, phường H1, thành phố H2. Trong cuộc sống hằng ngày, bà H và ông T là công dân chấp hành pháp luật, quy định của tổ dân khu phố. Mâu thuẫn của bà H và ông T tổ dân có nắm được do cán bộ Thừa phát lại đến giao giấy tờ của tòa án cho ông T và đề nghị tổ trưởng xác nhận việc giao giấy tờ cho ông T. Mâu thuẫn cụ thể của bà H và ông T tổ dân không nắm được tường tận nhưng chủ yếu hai vợ chồng bà H, ông T mâu thuẫn trong cách xây dựng kinh tế gia đình, trong cách sinh hoạt, chăm sóc con cháu. Bà H và ông T có hai con chung đều đã trưởng thành, lập gia đình riêng. Khoảng hai năm nay bà H chủ yếu lên Hà Nội ở với gia đình con gái, chỉ thỉnh thoảng mới về nhà ở tổ 2, khu Trới 4, phường H1, thành phố H2.
Tại phiên tòa, bà H vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn với ông T, không đề nghị Tòa án giải quyết về con chung và tài sản chung.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng theo quy định của Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho bà Đoàn Thị Minh H được ly hôn với ông Ngô Bá T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng và sự vắng mặt của bị đơn:
[1.1] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn – bà Đoàn Thị Minh H khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình về việc “ly hôn” đối với bị đơn – ông Ngô Bá T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự do đó việc Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn là đúng quy định của pháp luật.
[1.2] Về sự vắng mặt của bị đơn:
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho bị đơn theo quy định tại Chương X của Bộ luật Tố tụng dân sự như thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn – ông Ngô Bá T bằng hình thức tống đạt thông qua dịch vụ thừa phát lại, niêm yết công khai. Ông T đã biết nhưng từ chối nhận các văn bản của Tòa án và không đến Tòa án để làm việc (ông T chỉ đến Tòa án để tham gia phiên tòa một lần nhưng phiên tòa hoãn do sức khỏe của Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa). Việc không đến Tòa án theo thông báo thể hiện sự cố tình không chấp hành pháp luật của ông T. Do vậy, việc xét xử vắng mặt bị đơn không ảnh hưởng đến tính khách quan khi giải quyết vụ án, đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và các quy định khác có liên quan của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về ly hôn: quan hệ hôn nhân giữa bà Đoàn Thị Minh H và ông Ngô Bá T là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Xét yêu cầu ly hôn của bà H, Hội đồng xét xử thấy: mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông T phát sinh năm 2014 xuất phát chủ yếu là do vợ chồng bất đồng về kinh tế dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã và đôi khi xảy ra xô xát dẫn đến cuộc sống căng thẳng, ảnh hưởng đến con cái, tình cảm vợ chồng dần phai nhạt. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2014 đến nay, đã có nhiều biện pháp hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông T, mục đích hòa giải cho vợ chồng về đoàn tụ, nhưng bà H vẫn kiên quyết xin ly hôn với ông T; trường hợp ông T có thay đổi cách sống thì bà H cũng không chấp nhận về đoàn tụ với ông T.
Ông T xác định trong cuộc sống gia đình không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ xuất phát từ kinh tế gia đình. Ông T không đồng ý ly hôn với bà H, mong muốn hai vợ chồng cùng ngồi bàn bạc, hàn gắn với nhau và mong muốn giải quyết nội bộ gia đình. Tuy nhiên, ông T không có biện pháp hòa giải mâu thuẫn vợ chồng, không đến tham gia hòa giải tại Tòa án cũng như tham gia phiên tòa, thể hiện ông T không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng.
Đối chiếu với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử thấy tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H đối với ông T.
[3] Về con chung: bà H và ông T có 02 con chung là Ngô Bá Tùng L, sinh ngày 22/9/1987 và Ngô Thị Cẩm H4, sinh ngày 14/8/1994. Các con chung đã trưởng thành, phát triển bình thường và có gia đình nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về tài sản chung: bà Đoàn Thị Minh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[6] Đối với ý kiến của kiểm sát viên là có căn cứ pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị Minh H.
1. Về quan hệ hôn nhân: bà Đoàn Thị Minh H được ly hôn với ông Ngô Bá T.
2. Về án phí: bà Đoàn Thị Minh H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0000031 ngày 04/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Bà H đã nộp đủ án phí.
3. Về quyền kháng cáo: nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 25/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 25/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về