Bản án về tranh chấp ly hôn số 23/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tây Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 83/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/DSST-HNGĐ ngày 15/6/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị N, sinh năm 1990 (có mặt); Địa chỉ: Khối H, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trung P, sinh năm 1978 (vắng mặt lần thứ 02); Địa chỉ: Khối H, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng nhƣ tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Lê Thị N trình bày:

Chị và anh Nguyễn Trung P tự nguyện quen biết được gia đình hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới theo phong tục, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định vào ngày 10/11/2009. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, thường xảy ra tranh cãi, anh P thường hay say xỉn về nhà đánh đập chị. Chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ tháng 6/2020 cho đến nay. Nay vợ chồng sống ly thân được một thời gian dài, tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Nguyễn Trung P.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Khánh L (giới tính: Nữ), sinh ngày 28/11/2011 và Nguyễn Trí L (giới tính: Nam), sinh ngày 22/11/2014, con chung đang ở với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung đến trưởng thành. Không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Nguyễn Trung P vắng mặt lần thứ hai không có lý do:

Về các thủ tục giải quyết vụ án ly hôn đã được Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo, niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định tại Điều 177 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh Phố đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để làm việc, hòa giải, tiếp cận và công khai chứng cứ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không có văn bản hoặc quan điểm gởi đến Tòa án; không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Như vậy anh P không xem trọng cuộc hôn nhân giữa anh và chị N. Nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản lấy lời khai của bà Trần Thị A (mẹ đẻ anh P) ngày 26/02/2021: Con trai bà là Nguyễn Trung P có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 2, khối H, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định. Con bà có mặt tại địa phương.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử từ khi Tòa thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật tố tụng của các đương sự đúng theo quy định.

Bị đơn anh Nguyễn Trung P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 147, 227, 228, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Áp dụng các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 tuyên xử : chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị N; về hôn nhân: chị Lê Thị N được ly hôn anh Nguyễn Trung P; về con chung: giao 02 con chung tên Nguyễn Thị Khánh L (giới tính: Nữ), sinh ngày 28/11/2011 và Nguyễn Trí L (giới tính: Nam), sinh ngày 22/11/2014 cho chị N tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng đến trưởng thành, anh Nguyễn Trung P không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị N không yêu cầu; tài sản chung, nợ chung: chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét; án phí Hôn nhân Gia đình sơ thẩm: đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là vụ án Hôn nhân và Gia đình khởi kiện ly hôn. Bị đơn anh Nguyễn Trung P có đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay tại tổ 2, khối H , thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Anh Nguyễn Trung P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị N và anh Nguyễn Trung P kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định vào ngày 10/11/2009 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn vợ chồng. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, thường xảy ra tranh cãi, anh P thường hay say xỉn về nhà đánh đập chị N. Chị N đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ tháng 6/2020 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị N yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Trung P.

Bà Trần Thị A là mẹ đẻ anh Nguyễn Trung P cũng đã xác nhận: Vợ chồng Lê Thị N- Nguyễn Trung P sau khi cưới có sống cùng với bà một thời gian. Trong thời gian sống chung vợ chồng con bà có xảy ra mâu thuẫn là vì P làm thợ xây, có uống rượu nên vợ chồng có lời qua tiếng lại và P có đánh vợ. Vợ chồng con bà đã sống ly thân từ tháng 6/2020 cho đến nay.

Mặc dù anh Nguyễn Trung P đã được Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, tống đạt hợp lệ giấy triệu tập nhiều lần để làm việc, hòa giải tiếp cận và công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa, nhưng anh P vẫn vắng mặt không có lý do. Việc anh P không đến Tòa làm việc, không có quan điểm gởi đến Tòa án chứng tỏ anh Phố không có trách nhiệm với hôn nhân của chính mình. Như vậy, có căn cứ xác định hôn nhân giữa chị Nữ và anh P không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, hiện tại vợ chồng đã sống ly thân; do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị Khánh L (giới tính: Nữ), sinh ngày 28/11/2011 và Nguyễn Trí L (giới tính: Nam), sinh ngày 22/11/2014, con chung đang ở với chị N. Khi ly hôn, chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung đến trưởng thành (con chung Ly có nguyện vọng ở với mẹ là chị NguyễnThị N); chị Nữ không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Do đó, cần giao hai con chung Nguyễn Thị Khánh L và Nguyễn Trí L cho chị N tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng đến trưởng thành là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N không yêu cầu, anh P vắng mặt không cung cấp lời khai nên miễn xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[3] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Căn cứ vào quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị Quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội cần buộc chị Lê Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào khoản tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006983 ngày 25/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn; chị N đã nộp xong án phí.

[4] Lời phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[5] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 273; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015;

Áp dụng Điều 8, Điều 9, Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị Quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Trung P.

2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn Thị Khánh L (giới tính: Nữ), sinh ngày 28/11/2011 và Nguyễn Trí L (giới tính: Nam), sinh ngày 22/11/2014 cho chị Lê Thị N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến trưởng thành (con chung Nguyễn Thị Khánh L có nguyện vọng muốn ở với mẹ là Lê Thị N).

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N không yêu cầu nên miễn xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi đến thăm nom, chăm sóc, giúp đỡ con chung, không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên đều có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

4.Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Lê Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào khoản tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006983 ngày 25/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn; chị N đã nộp xong án phí.

5. Quyền kháng cáo: Chị Lê Thị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Trung P vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 23/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về