Bản án về tranh chấp ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 1 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 131/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 571/2021/QĐXX-ST ngày 23/12/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 642/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Dương Thị Đ, sinh năm 1974.

Địa chỉ: 11C Đặng Nhữ Lâm, tổ 19, khu phố A, thị trấn NB, huyện NB, thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1973 Địa chỉ: 11C Đặng Nhữ Lâm, tổ 19, khu phố A, thị trấn NB, huyện NB, thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện ngày 17/3/2021 và các bản tự khai và biên bản có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn Bà Dương Thị Đ trình bày:

Bà Đ và Ông Nguyễn Văn N quen biết, tự nguyện đi đến hôn nhân và đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số: 08, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hạnh Đông, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 21/08/2000.

Theo Bà Đ, vợ chồng sống chung hạnh phúc thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn vì một phần kinh tế gia đình dẫn đến tính cách hai vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống nên tình cảm vợ chồng không gắn bó mất lòng tin ở nhau thường xuyên xảy ra việc gây gổ, cãi vã do Ông N thường xuyên đi nhậu, và có ghen tuông đánh đập. Đồng thời vợ chồng không có sự yêu thương chia sẻ, chăm sóc lẫn nhau trong gia đình dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Mặc dù đôi bên đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không thể tiếp tục chung sống với nhau. Nay, Bà Đ nhận thấy hôn nhân không còn hạnh phúc nên Bà Đ khởi kiện yêu cầu được ly hôn với Ông N để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Có ba con chung trong đó hai trẻ trưởng thành tên Nguyễn Nhật T - sinh ngày 23/3/1996, Nguyễn Thị Thúy N – sinh ngày 9/2/1999 và một trẻ chưa trưởng thành Nguyễn Minh T – sinh ngày 16/6/2011. Hiện nay con đang ở với Bà Đ, do đó Bà Đ đề nghị được trực tiếp nuôi con đối với trẻ Nguyễn Minh T không yêu cầu Ông N cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Bà Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Bà Đ xác định không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng để mời Ông N trình bày ý kiến hay đưa ra các yêu cầu của mình, đồng thời tham gia hòa để giải hàn gắn gia đình với Bà Đ nhưng Ông N không đến tòa, do đó không có phần trình bày.

- Phát biểu của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè: Qua kiểm sát giải quyết vụ án thì từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Tại phiên tòa hôm nay, đương sự có mặt đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và tuân thủ nội quy phiên tòa. Đối với bị đơn vắng mặt không lý do mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng về thời gian, địa điểm mở phiên tòa nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đã đưa ra chứng cứ mâu thuẫn trầm trọng, nghiêm trọng trong hôn nhân gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận ly hôn có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số: 08, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hạnh Đông, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 21/08/2000 thì quan hệ hôn nhân giữa Bà Dương Thị Đ và Ông Nguyễn Văn N là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà Dương Thị Đ khởi kiện ly hôn Ông Nguyễn Văn N là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, Ông N có cư trú tại huyện Nhà Bè. Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Văn N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng về thời gian, địa điểm mở phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt là hoàn toàn đúng theo Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Xét đơn khởi kiện ngày 17/3/2021 của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Xét yêu cầu Bà Đ xin ly hôn Ông N do mục đích hôn nhân không đạt do mâu thuẫn một phần kinh tế gia đình dẫn đến tính cách hai vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống nên tình cảm vợ chồng không gắn bó mất lòng tin ở nhau thường xuyên xảy ra việc gây gổ, cãi vã là lỗi Ông N thường xuyên đi nhậu và có ghen tuông đánh đập. Tuy nhiên Ông N không đến tòa trình bày về mâu thuẫn gia đình nhưng phía Bà Đ cung cấp chứng cứ về Ông N có ghen tuông đánh đập, do đó vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng, tình cảm Bà Đ Ông N không thể hàn gắn, mặc dù hai vợ chồng có liên hệ hàn gắn nhưng không thành. Như vậy, hôn nhân giữa Bà Đ và Ông N không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt đồng thời ngăn chặn mâu thuẫn ngày càng tăng dẫn đến sự xung đột trong gia đình trầm trọng. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa Bà Đ và Ông N là có thật và khả năng hàn gắn không còn, đời sống hôn nhân đã đến mức trầm trọng nên mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của Bà Dương Thị Đ đối với Ông Nguyễn Văn N.

[2.2] Về con chung: Có ba con chung trong đó hai trẻ trưởng thành tên Nguyễn Nhật T - sinh ngày 23/3/1996, Nguyễn Thị Thúy N – sinh ngày 9/2/1999 và một trẻ chưa trưởng thành Nguyễn Minh T – sinh ngày 16/6/2011. Do đó Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Bà Đ đề nghị nuôi cháu Nguyễn Minh T – sinh ngày 16/6/2011, hiện tại Bà Đ là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Ngoài ra Bà Đ chứng minh được kinh tế để bảo đảm để nuôi dạy tốt căn cứ vào đơn xin được quyền nuôi con và giấy xác nhận thu nhập lương của Bà Đ có đủ điều kiện được quyền chăm sóc nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử chấp nhận phần yêu cầu Bà Đ giao cháu Nguyễn Minh T – sinh ngày 16/6/2011 cho Bà Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét Ông N là người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Tú theo quy định Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Mặc khác, Bà Đ tự nuôi không yêu cầu Ông N cấp dưỡng. Do đó Hội đồng xét xử ghi nhận Ông N không cấp dưỡng cho trẻ Tú.

Ông N được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở Ông N thực hiện quyền này.

Vì lợi ích con chung, theo yêu cầu của một hoặc hai bên, Toà án có thể ra quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con hoặc hạn chế quyền thăm non, chăm sóc con của người không trực tiếp nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung: Bà Đ, Ông N không yêu cầu Tòa án giải quyết do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Nợ chung: Bà Đ xác định không có. Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Căn cứ quy định Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu miễn giảm thu nộp quản lý sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Xét án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình nguyên đơn Bà Dương Thị Đ có giá ngạch 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 68, Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 91, Điều 147, Điều 225, Điều 227, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ Điều 55, Điều 57, Điều 81, Điều 82 Điều 83 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu miễn giảm thu nộp quản lý sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Xét xử vắng mặt đối với Ông Nguyễn Văn N.

2/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bà Dương Thị Đ ly hôn với Ông Nguyễn Văn N. Giấy chứng nhận kết hôn số: 08, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hạnh Đông, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 21/08/2000 không có giá trị pháp lý kể từ ngày bản án ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Có ba con chung trong đó hai trẻ trưởng thành tên Nguyễn Nhật T - sinh ngày 23/3/1996, Nguyễn Thị Thúy N – sinh ngày 9/2/1999 và một trẻ chưa trưởng thành Nguyễn Minh T – sinh ngày 16/6/2011. Buộc Ông Nguyễn Văn N giao trẻ Tú cho Bà Dương Thị Đ trược tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Nguyễn Văn N không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Văn N được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở Ông N thực hiện quyền này.

Vì lợi ích con chung, theo yêu cầu của một hoặc hai bên, Toà án có thể ra quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con hoặc hạn chế quyền thăm non, chăm sóc con của người không trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: Bà Dương Thị Đ và Ông Nguyễn Văn N tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.

Nợ chung: Bà Dương Thị Đ và Ông Nguyễn Văn N khai không có nên không xem xét giải quyết.

3/ Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình: Nguyên đơn Bà Dương Thị Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2019/0073446 ngày 26/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Bà Đ đã nộp đủ án phí.

4/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về