Bản án về tranh chấp ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 24/2022/TLST–HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2022 về tranh chấp ly hôn.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Viết Q (Nguyen, Q Viet), sinh năm 1971.. Địa chỉ: Số 78xx Ot, CA 95xxx, Hoa Kỳ.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Q (nhận các văn bản tố tụng, quyết định, bản án của Tòa án nhân dân các cấp): Ông Trần Thanh G, sinh năm 1978. Địa chỉ: Số 7xx, ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre. (Văn bản ủy quyền ngày 08/3/2022)

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Số xxx, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08/3/2022, bản tự khai ngày 08/3/2022 và đơn xin vắng mặt ngày 08/3/2022, nguyên đơn ông Nguyễn Viết Q (Nguyen, Viet Quyen) trình bày như sau:

Ông và bà Nguyễn Thị Thanh Thào tự quen biết nhau và tiến tới hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 02 ngày 09/01/2020. Tuy nhiên, sau khi kết hôn, ông bà do có khoảng cách về không gian, bất đồng quan điểm trong cuộc sống cũng như tính cách mỗi người khác nhau khó có thể hòa hợp. Từ đó dẫn đến hai bên xảy ra mâu thuẫn và thường xuyên cãi nhau. Ông cũng đã nhiều lần tìm cách giải hòa nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn lại ngày càng trầm trọng hơn. Nay ông nhận thấy tình cảm giữa ông và bà T không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

Về hôn nhân: Ông yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh T, không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.

Về con chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản khai và văn bản yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt ngày 19/5/2022, bị đơn Nguyễn Thị Thanh T trình bày:

Bà và ông Q sau thời gian tìm hiểu tự nguyện thì có tiến đến hôn nhân vào năm 2020. Cả hai có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai vào ngày 09/01/2020. Tuy nhiên, do ông Q là người có nơi cư trú ở nước ngoài, sau khi kết hôn thì ông Q trở về Mỹ để sinh sống và làm việc. Khoảng cách về không gian khiến cho hai bên không có điều kiện vun đắp tình cảm, điều kiện sống khác nhau nên cũng nảy sinh nhiều bất đồng về quan điểm, tính cách dần không còn hợp nhau, thường xuyên xảy ra cải vã nhưng không thể giải quyết. Phía nguyên đơn cũng có tìm cách giải quyết các mâu thuẫn nhưng không có kết quả, bản thân bà nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Bà nhận thấy hiện nay tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà cũng đã đến mức không thể hòa giải được, vì vậy:

- Về hôn nhân: Bà đồng ý ly hôn với ông Nguyễn Viết Q.

- Về tài sản chung, nợ chung, con chung: Không có nên không yêu cầy giải quyết. Bà cũng đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt bà bởi hiện nay bà rất bận với công việc của mình, thường xuyên công tác xa; nên không thể tham dự các buổi làm việc cũng như phiên tòa xét xử của Tòa.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Quan hệ tranh chấp giữa ông Nguyễn Viết Q và bà Nguyễn Thị Thanh T là ly hôn, nguyên đơn Nguyễn Viết Q có quốc tịch Hoa Kỳ và hiện đang ở Hoa Kỳ; bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh T có địa chỉ ở Việt Nam nên căn cứ vào khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38 và Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa gia đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Viết Q và bà Nguyễn Thị Thanh T xác lập hôn nhân với nhau vào năm 2020 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai và đã được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 02 ngày 09/01/2020 nên hôn nhân giữa ông Q và bà T là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Nhận thấy, ông Q và bà T cùng trình bày sau khi kết hôn, vì lý do khoảng cách địa lý, ông Q quay về Mỹ để sinh sống làm việc, bà T ở Việt Nam nên hai bên dần phát sinh nhiều mâu thuẫn mà không thể giải quyết. Ông Q có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà T. Khi biết ông Q có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, bà T cũng trình bày ý kiến là đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy trong thời gian sống chung, ông Q và bà T có phát sinh mâu thuẫn, hiện tại các bên không còn thực hiện nghĩa vụ vợ chồng là quan tâm chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án, ông Q và bà T đều xin giải quyết vắng mặt nên Tòa án cũng không thể hòa giải đoàn tụ.

Từ những phân tích trên, nhận thấy việc ông Q yêu cầu ly hôn với bà T là có cơ sở và bà T cũng đồng ý nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Bà Niềm và ông Phước không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn nên ghi nhận.

[3] Về con chung: Ông Q và bà T đều trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Ông Q và bà T đều trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về nợ chung: Ông Q và bà T trình bày không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án không nhận đơn yêu cầu độc lập nào của bên thứ ba nên không giải quyết, nếu sau này có phát sinh tranh chấp thì các bên đương sự có thể khởi kiện thành vụ kiện khác.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không giá ngạch: Ông Q phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38 và Điều 40, Điều 147, Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 56 và Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thương vụ Quốc hội quy định về mức thu , miên, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của ông Nguyễn Viết Q (Nguyen, Q Viet) và bà Nguyễn Thị Thanh T.

1.1. Về hôn nhân: Ông Nguyễn Viết Q được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh T.

Ông Nguyễn Viết Q và bà Nguyễn Thị Thanh T không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn nên ghi nhận.

1.2. Về con chung: Ông Nguyễn Viết Q và bà Nguyễn Thị Thanh T đều trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

1.3. Về tài sản chung: Ông Nguyễn Viết Q và bà Nguyễn Thị Thanh T đều trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

1.4. Về nợ chung: Ông Nguyễn Viết Q và bà Nguyễn Thị Thanh T trình bày không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án không nhận đơn yêu cầu độc lập nào của bên thứ ba nên không giải quyết, nếu sau này có phát sinh tranh chấp thì các bên đương sự có thể khởi kiện thành vụ kiện khác.

2. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Viết Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0007040 ngày 04 tháng 5 năm 2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre.

Ông Nguyễn Viết Q được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật. Bà Nguyễn Thị Thanh T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

103
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về