Bản án về tranh chấp ly hôn số 181/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 181/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai mở Phên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 2616/2020/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2021/QĐXX.ST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2021 và quyết định hoãn Phên tòa số 97/2021/QĐHPT ngày 28 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Nguyên Ph, sinh năm 1981 Địa chỉ: P. Thống Nhất, TP. B, tỉnh Đồng Nai

- Bị đơn: Ông Lê Nguyên Ng, sinh năm 1982.

Địa chỉ: P. Thống Nhất, TP. B, tỉnh Đồng Nai (Bà Ph, ông Ng vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 03/12/2020, bà Huỳnh Thị Nguyên Ph nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân TP. B, tỉnh Đồng Nai giải quyết xin được ly hôn với ông Lê Nguyên Ng. Lý do xin ly hôn, theo bà Ph trình bày: Qua thời gian tìm hiểu, đến năm 2007 bà và ông Ng tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân P. Thống Nhất, TP. B, tỉnh Đồng Nai (theo Giấy chứng nhận kết hôn số 26 ngày 02/11/2007). Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau khá hạnh phúc, nhưng thời gian về sau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, cãi vã thường xuyên, không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa, vợ chồng không còn tôn trọng nhau, ông Ng là người không lo làm ăn say xỉn đánh đập bà thường xuyên. Nay bà Ph nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Ng.

Về con chung: Có 02 cháu tên Lê Kh, sinh ngày 16/11/2008 và Lê K, sinh ngày 16/11/2008.

Sau khi ly hôn, bà đồng ý nhận nuôi dưỡng cháu Kh và cháu K. Tạm thời bà không yêu cầu ông Ng cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là ông Lê Nguyên Ng, trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã nhiều lần Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông Ng vẫn cố tình vắng mặt không lý do, nên Tòa án nhân dân TP B không tiến hành hòa giải được. Tại Phên tòa ông Ng vẫn vắng mặt nên không có lời khai.

* Tại Phên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Phên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đã thực hiện đúng, còn bị đơn không thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với ông Ng để tham gia hòa giải và tại Phên tòa hôm nay ông Ng vẫn vắng mặt không lý do, điều đó chứng tỏ ông Ng đã tự bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình, không còn tha thiết với việc hàn gắn đoàn tụ. Từ đó cho thấy tình trạng mâu thuẫn vợ chồng bà Ph, ông Ng đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Ph, giải quyết cho bà Ph được ly hôn với ông Ng để trả tự do cả hai.

Về con chung: Giao cháu Lê Kh, sinh ngày 16/11/2008 và Lê K, sinh ngày 16/11/2008 cho bà Ph nuôi dưỡng, tạm thời ông Ng không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra để giải quyết bằng vụ án khác khi các bên đương sự có yêu cầu.

Về án phí: Bà Ph phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại Phên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại Phên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: bà Huỳnh Thị Nguyên Ph xin ly hôn với ông Lê Nguyên Ng có địa chỉ cư trú tại: 1/2B, KP6, P. Thống Nhất, TP. B, tỉnh Đồng Nai. Theo biên bản xác minh của Công an P. Thống Nhất cung cấp thông tin: Ông Ng có đăng ký thường trú tại địa chỉ 1/2B, KP6, P. Thống Nhất, TP. B, tỉnh Đồng Nai và hiện nay đang sinh sống tại địa chỉ trên. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân TP. B có thẩm quyền giải quyết.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Ph có đơn xin vắng mặt. Đối với bị đơn ông Lê Nguyên Ng, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ xét xử đến lần thứ hai, nhưng ông Ng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Nguyên Ph và ông Lê Nguyên Ng chung sống với nhau vào năm 2007 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân P. Thống Nhất, TP. B, tỉnh Đồng Nai (theo Giấy chứng nhận kết hôn số 26 ngày 02/11/2007), theo quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 nên xác định là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, theo bà Ph trình bày vợ chồng chỉ sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó thì vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã nhau, cuộc sống chung không thể hòa hợp cuộc sống chung không thể hòa hợp, nên không có hạnh phúc. Qua kết quả xác minh tại địa phương nơi cư trú của bà Ph, ông Ng thì được biết mâu thuẫn vợ chồng địa phương không nắm rõ do không có báo với địa phương. Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với ông Ng để tham gia hòa giải và tại Phên tòa hôm nay ông Ng vẫn vắng mặt không lý do, điều đó chứng tỏ ông Ng đã bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình, không còn tha thiết với việc hàn gắn đoàn tụ. Từ đó cho thấy tình trạng mâu thuẫn vợ chồng của bà Ph đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Ph, giải quyết cho bà Ph được ly hôn với ông Ng để trả tự do cả hai.

[4] Về con chung: Giao cháu Lê Kh, sinh ngày 16/11/2008 và Lê K, sinh ngày 16/11/2008 cho bà Ph nuôi dưỡng, tạm thời ông Ng không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Theo bà Ph trình bày tài sản chung không có;

nợ chung không có. Tuy nhiên, do ông Ng vắng mặt tại Phên tòa, không có lời khai nên không có cơ sở để xem xét giải quyết. Do vậy, cần tách ra để giải quyết bằng vụ án khác khi các bên đương sự có yêu cầu.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bà Ph phải chịu 300.000đ án phí sơ thẩm.

[7] Đối với phần phát biểu của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân TP. B tại Phên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Phên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án như trên. Xét thấy, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 1 Điều 227; Điều 228, Điều 266, 271, 273; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 9, Điều 11 và Điều 12, Điều 89, Điều 92, Điều 93 và Điều 94 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

Áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Điều 6; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu “Ly hôn” của bà Huỳnh Thị Nguyên Ph.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Nguyên Ph được ly hôn với ông Lê Nguyên Ng.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Kh, sinh ngày 16/11/2008 và Lê K, sinh ngày 16/11/2008 cho bà Ph nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Tạm thời ông Ng không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông Ng được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc giáo dục con không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con khi cần thiết, bà Ph, ông Ng được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra để giải quyết bằng vụ án khác khi các bên đương sự có yêu cầu.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về án phí HNGĐ-ST: Bà Huỳnh Thị Nguyên Ph phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, theo biên lai thu số 0007682 ngày 7/12/2020.

5. Bà Huỳnh Thị Nguyên Ph và ông Lê Nguyên Ng được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 181/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:181/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về