Bản án về tranh chấp ly hôn số 172/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 172/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Trong ngày 29 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:

390/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020 về việc: “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 105/2022/QĐST- HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hoàng T, sinh năm 1980 – Có mặt Địa chỉ: Số Z Đào Sư Tích, Ấp 3, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Lê Tuấn H, sinh năm 1979 – Vắng mặt Địa chỉ cư trú cuối cùng: Số V Đào Sư Tích, Ấp 3, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản về kiểm tra việc giao nộp , tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bà Nguyễn Thị Hoàng T là nguyên đơn trình bày:

Bà Nguyễn Thị Hoàng T và ông Lê Tuấn H tự nguyện kết hôn năm 2007.

Hai bên có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 37, quyển số 01/2007 do Ủy ban nhân dân xã Phước Lộc, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/7/2007.

Khi kết hôn bà T và ông H không sinh sống tại địa chỉ thường trú là số Z, Tổ 1, Ấp 2, xã Phước Lộc, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh mà bà Thơ và ông Hải thuê phòng trọ tại địa bàn Ấp 3, xã Phước Kiển để sống. Đến năm 2016 thì bà T và ông H thuê phòng trọ tại nhà số 205/27/8 Đào Sư Tích, Ấp 3, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh để sinh sống.

Thời gian đầu vợ chồng cũng chung sống hạnh phúc. Nhưng kể từ đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống vì ông H thiếu trách nhiệm với gia đình, vợ con, khi cãi nhau ông H còn đánh bà T. Mặt khác, ông H thường xuyên bài bạc gây nợ nần. Và cũng từ năm 2019, ông H thường hay bỏ nhà đi, lâu lâu mới về.

Nay, bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn ông H để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Bà T và ông H có 01 con chung là Lê Hoàng Anh T1, sinh ngày 14/10/2008 (Nam) hiện đang do bà T đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Bà T yêu cầu được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Bà T xác định không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng của Tòa án và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng để ông Lê Tuấn H là bị đơn đến Tòa án làm việc và tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm nhưng ông Lê Tuấn H vẫn không có mặt mà không có lý do chính đáng.

* Phát biểu của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm trước khi Hội đồng xét vào nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Việc xét xử vắng mặt đương sự đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 37, quyển số 01/2007 do Ủy ban nhân dân xã Phước Lộc, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/7/2007 thì bà Nguyễn Thị Hoàng T và ông Lê Tuấn H có quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà T xin ly hôn ông Lê Tuấn H. Ông H có nơi cư trú cuối cùng tại huyện Nhà Bè, do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Lê Tuấn H là bị đơn mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng để tiếp cận công khai thu thập chứng cứ và hòa giải đồng thời thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng để ông H tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về các yêu cầu của đương sự:

[2.1] Theo lời trình bày của nguyên đơn thì kể từ năm 2019 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống vì ông H thiếu trách nhiệm với gia đình, vợ con, khi cãi nhau ông H còn đánh bà T. Mặt khác, ông H thường xuyên bài bạc gây nợ nần. Và cũng từ năm 2019, ông H thường hay bỏ nhà đi, lâu lâu mới về, bỏ mặc bà T tự chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.

Theo kết quả xác minh của Hội liên hiệp phụ nữ xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè thì “Bà Nguyễn Thị Hoàng T và ông Lê Tuấn H chưa đến cơ quan để trình bày vụ việc”.

Hội đồng xét xử xét:

Mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Hoàng T và ông Lê Tuấn H đã trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu có duy trì cuộc hôn nhân này thì cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên. Hơn nữa, Ông H mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa làm việc chứng tỏ Ông H cũng không còn thiết tha gì đến cuộc hôn nhân này nữa. Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Hoàng T ly hôn ông Lê Tuấn H là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Bà T yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi con.

Hội đồng xét xử xét:

Bà Nguyễn Thị Hoàng T và ông Lê Tuấn H có 01 con chung là Lê Hoàng Anh T, sinh ngày 14/10/2008 (Nam) hiện đang do bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Tại Bản ghi nhận nguyện vọng, trẻ Tuấn cũng muốn được ở với mẹ. Do vậy để đảm bảo quyền lợi của trẻ em, Hội đồng xét xử giao Lê Hoàng Anh Tu cho bà T tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

[2.3] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận việc bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng.

[2.4] Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong vụ kiện dân sự khác.

[2.5] Về nợ chung: Bà T xác định không có.

[3] Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng bà T phải nộp, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà T đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0072900 ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 227; Điều 228; Điều 266; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117, 118 và Điều 119 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Luật trẻ em;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016;

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Hoàng T được ly hôn ông Lê Tuấn H.

- Về con chung: Giao con chung là Lê Hoàng Anh T, sinh ngày 14/10/2008 (Nam) cho bà Nguyễn Thị Hoàng T tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

- Về việc cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận việc bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng.

Bà Nguyễn Thị Hoàng T có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi khi ông Lê Tuấn H đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì quyền lợi của con khi cần thiết, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà T xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong vụ kiện dân sự khác .

Về nợ chung: Bà T xác định không có.

2/ Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) do bà T phải nộp, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà T đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0072900 ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Về quyền kháng cáo: Bà T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 172/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:172/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về