Bản án về tranh chấp ly hôn số 16/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 16/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24-02-2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 813/TLST - HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐSTXX-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/QĐST-HPT ngày 14-01-2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Phương L, sinh năm 1994 (Vắng mặt);

Địa chỉ nhà số X, đường P, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

- Bị đơn: Ông Lê Tuấn H, sinh năm 1990 (Vắng mặt);

Địa chỉ nhà số X, đường P, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Nguyên đơn bà Phạm Thị Phương L trình bày: Sau một thời gian tự nguyện tìm hiểu, bà và ông Lê Tuấn H tiến tới hôn nhân, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND Phường B, thành phố Vũng Tàu vào ngày 15-6-2018. Sau kết hôn, vợ chồng bà chung sống hạnh phúc tại nhà số X, đường P, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Sau đó, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã nhau ngày càng trầm trọng nguyên nhân do ông H ham chơi bóng đá, cờ bạc, không lo làm ăn, không quan tâm gì đến vợ con gia đình, gây nợ nần. Vợ chồng dần bất đồng về quan điểm sống. Bà và gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải, động viên, khuyên can ông H làm lại từ đầu nhưng ông H vẫn đâu vào đấy, không thay đổi. Nay nhận thấy tính cách hai bên không thể hòa hợp, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng không thể hàn gắn nên trả tự do cho nhau. Do đó, bà làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Về hôn nhân: Bà yêu cầu ly hôn với ông Lê Tuấn H.

Về con chung: Bà và ông H có 01 con chung là Lê Phạm Phúc K, sinh ngày 05- 6-2019. Ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu K, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Do bận công việc, đi lại khó khăn nên bà có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn ông Lê Tuấn H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng.

3. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu phát biểu ý kiến:

- Về trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, mâu thuẫn giữa vợ chồng bà Linh và ông H là có thật nguyên nhân theo bà L cho rằng do ông H ham chơi bóng đá, cờ bạc, không lo làm ăn, không quan tâm gì đến vợ con gia đình, gây nợ nần dẫn đến vợ chồng không hạnh phúc nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Về con chung: Bà L và ông H có một con chung tên là Lê Phạm Phúc K, sinh ngày 05-6-2019. Tại thời điểm xét xử, cháu K dưới 36 tháng tuổi nên căn cứ vào Điều của Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao con chung cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Tài sản chung, nợ chung, đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Bà Phạm Thị Phương L và ông Lê Tuấn H tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn tại UBND Phường B, thành phố Vũng Tàu. Nay bà L có đơn yêu cầu ly hôn với ông H. Ông H cư trú, sinh sống tại Vũng Tàu. Do đó, xác định đây là vụ án tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 3 Điều 36 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.2]. Về sự vắng mặt của đương sự: Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt xét xử lần 2 và nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự theo khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2]. Xét nội dung các yêu cầu của nguyên đơn:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông H tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn tại UBND Phường B, thành phố Vũng Tàu, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 106 ngày 15-6-2018 nên hôn nhân là hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án bà Linh cho rằng, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Sau đó, phát sinh mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn được nguyên nhân do ông H ham chơi bóng đá, cờ bạc, không lo làm ăn, không quan tâm gì đến vợ con gia đình, gây nợ nần. Vợ chồng dần bất đồng về quan điểm sống. Bà và gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải, động viên, khuyên can ông H làm lại từ đầu nhưng ông H không thay đổi.

Theo xác minh tại địa phương xác nhận, bà L và ông H kết hôn, chung sống với nhau ở nhà ông Phạm Văn S - bố ruột bà L tại số X, đường P, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Bà L và ông H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau, việc nuôi dưỡng chăm sóc cháu Lê Phạm Phúc K do bà L thực hiện.

Xét tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng bà L, ông H là có thật. Bà L cho rằng mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn, còn ông H trong quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông H không có mặt thể hiện việc bỏ mặc, không quan tâm đến hôn nhân của mình với bà L. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L theo khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Bà L và ông H có 01 con chung là Lê Phạm Phúc K, sinh ngày 05-6-2019. Ly hôn, bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu K, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét, tại thời điểm xét xử, cháu K chưa đủ 36 tháng tuổi nên giao cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng theo khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Ông H không cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con mà không ai được cản trở.

[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà L phải nộp 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 2, 3 Điều 36; Điều 39; Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016.

Tuyên xử:

[1]. Về hôn nhân: Bà Phạm Thị Phương L được ly hôn với ông Lê Tuấn H.

[2]. Về con chung: Bà L và ông H có 01 con chung là Lê Phạm Phúc K, sinh ngày 05-6-2019. Hội đồng xét xử giao cháu Lê Phạm Phúc K cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Ông H không cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, trên cơ sở yêu cầu của một hoặc các bên đương sự hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo qui định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo qui định của pháp luật.

[3]. Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà L phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001498 ngày 10-12-2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vũng Tàu. Bà L đã nộp xong án phí.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 16/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về